thiên cơ về việt nam
Năm 2022 tình hình buôn lậu đường cát qua biên giới diễn biến phức tạp, thể hiện qua số lượng đường cát nhập lậu vào Việt Nam tăng gần gấp đôi so với năm 2021. Buôn lậu đường cát tiếp tục tăng ở các tỉnh biên giới Tăng cường quản lý địa bàn, mạnh tay chặn đường cát nhập lậu Long An ngăn chặn kịp thời 110 bao đường cát nhập lậu
Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khỏi nghiệp.
Thị trường các-bon luôn được coi là công cụ quan trọng nhất để giảm phát thải khí nhà kính. Do đó, trong những năm qua, Việt Nam đã, đang chuẩn bị khá đầy đủ về cơ sở pháp lý, định hình rõ nét những nhiệm vụ chính cho việc hình thành và phát triển thị trường các-bon.
Vay Tiền Online Me. Bão Damrey, một trong những cơn bão có sức tàn phá lớn nhất ở vùng biển Nam Trung Bộ của Việt Nam trong ký ức của những người còn sống, đã đổ bộ vào tỉnh Khánh Hòa vào ngày 4 tháng 11 năm 2017. Gây ra cái chết của 107 người và ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế và tài sản của người dân, cơn bão như một lời nhắc nhở tàn khốc về sức tàn phá của thiên nhiên. Với một đất nước có nhiều năm ứng phó với thiên tai như Việt Nam, bão Damrey không phải là cá biệt – và ngay thời điểm này miền Trung Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của một loạt các cơn bão và lũ gây thiệt hại nặng về tính mạng. Người dân ở ven biển Việt Nam, một quốc gia hứng chịu nhiều thiên tai nhất, thường xuyên phải đón bão, triều cường, lũ, xói lở bờ biển, hạn hán hoặc xâm nhập mặn. Trong những năm tới, những rủi ro thiên tai này chắc chắn sẽ gia tăng cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, tăng trưởng kinh tế cao và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, bất chấp những rủi ro này, vùng ven biển vẫn là nơi có nhiều ngành kinh tế phát triển mạnh – như du lịch, công nghiệp và nuôi trồng thủy sản - là động lực mạnh tiếp tục thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Tăng cường Khả năng Chống chịu Khu vực Ven biển là báo cáo mới do Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi Thảm họa cùng soạn thảo đã phân tích một cách có hệ thống các rủi ro thiên tai và đề ra kế hoạch hành động để thúc đẩy sự phát triển có khả năng thích ứng tại vùng ven biển. Rủi ro thiên tai cao hơn đối với người dân ven biển Rủi ro đối với con người là rất lớn. Báo cáo cho thấy khoảng 12 triệu người dân ở các tỉnh ven biển có nguy cơ phải gánh chịu những trận ngập lụt lớn và hơn 35% các khu dân cư nằm dọc bờ biển đang bị xói lở. Vì các khu an toàn ngày càng đông dân, nên các khu dân cư mới phải tập trung ở những khu vực có nguy cơ ngập lụt cao gấp đôi so với những khu vực đô thị đã có từ lâu. Thiên tai cũng gây ra thiệt hại lớn cho các ngành kinh tế và dịch vụ công trọng điểm. Mỗi năm, khoảng 852 triệu đô la Mỹ 0,5% GDP của Việt Nam và việc làm trong các ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công nghiệp phải hứng chịu rủi ro do lũ lụt trực tiếp gây ra. Du lịch ven biển chủ yếu dựa vào bãi biển và các hệ sinh thái nguyên sinh, nhưng ước tính có khoảng 42% số khách sạn ven biển nằm gần những bãi biển đang bị xói lở. Trên toàn quốc, khoảng một nửa số cơ sở y tế nằm trong vùng có nguy cơ ngập lụt cao. Ở một số tỉnh, tỷ lệ này thậm chí còn lên đến gần 100%. Hơn một phần ba mạng truyền tải và phân phối điện của Việt Nam nằm trên đất rừng, dễ bị cây đổ vào khi có bão. Mất điện làm làm gián đoạn sản xuất và giảm tỷ lệ vận hành thiết bị. Dù mức độ rủi ro thiên tai đã là rất lớn, biến đổi khí hậu dự kiến sẽ còn làm tăng những nguy cơ này. Theo kịch bản trong tình huống xấu, mực nước biển dâng 30 cm có thể làm diện tích các khu vực ven biển đô thị có thể bị ngập sâu thêm 7% và thêm 4,5 triệu người nữa bị ảnh hưởng bởi ngập lụt. Số người có thể bị đẩy vào cảnh nghèo đói vào năm 2030 do biến đổi khí hậu có thể lên tới 1,2 triệu người. Các giải pháp quản lý rủi ro chưa đáp ứng được nhu cầu Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích quan trọng về quản lý rủi ro thiên tai trong những thập kỷ gần đây, các biện pháp này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của đất nước. Thông tin về nguy cơ và rủi ro kinh tế-xã hội còn phân tán và thường không đầy đủ. Việc thiếu hướng dẫn, thực thi, năng lực và kinh phí đã gây ra nhiều hạn chế trong việc lập quy hoạch không gian, lập quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng an toàn cũng như bảo trì các công trình cơ sở hạ tầng một cách có hệ thống. Ví dụ, báo cáo cho thấy 2/3 hệ thống đê biển của Việt Nam, trải dài hơn km, không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn theo quy định. Ở nhiều tỉnh, ngay cả tiêu chuẩn được quy định cũng không đủ mạnh để trở thành biện pháp bảo vệ cần thiết. Các hệ thống dựa vào tự nhiên có thể thúc đẩy khả năng thích ứng của vùng ven biển nhưng lại không được đánh giá cao và đang chịu ngày càng nhiều áp lực từ hoạt động phát triển và khai thác quá mức. Hoạt động phát triển du lịch trên bờ và nuôi trồng thủy sản đang làm suy giảm chức năng bảo vệ của các hệ thống cồn cát ven biển và làm xói lở bờ biển thêm trầm trọng. Và mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc quản lý những rủi ro thiên tai còn lại, rủi ro đang lớn dần lên có nghĩa là Việt Nam phải tăng cường hơn nữa hệ thống tài chính phòng chống, cứu trợ và ứng phó với thiên tai. Cân bằng rủi ro và cơ hội Để đảm bảo vùng ven biển của Việt Nam có thể phát huy tiềm năng kinh tế một cách an toàn, cần sớm thực hiện nhiều hành động. Trì hoãn thực hiện các hành động này 10 năm sẽ làm cho những cú sốc tự nhiên có thể ảnh hưởng lên khoảng 4,3 tỷ đô la Mỹ giá trị phát triển kinh tế. Báo cáo đề xuất một kế hoạch hành động cụ thể nhằm tăng cường khả năng chống chịu ở các vùng ven biển, với các can thiệp mang tính chiến lược trong năm lĩnh vực sau Tăng cường dữ liệu và các công cụ ra quyết định bằng việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin chi tiết về nguy cơ và rủi ro cho truy cập rộng rãi, cũng như hệ thống quản lý tài sản cơ sở hạ tầng quan trọng, như giao thông, nước sạch và vệ sinh, điện. Lập quy hoạch không gian dựa trên rủi ro để đảm bảo hoạt động tăng trưởng kinh tế ở vùng ven biển không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các mô hình phát triển không an toàn - chẳng hạn như xây dựng khu dân cư mới ở các vùng có nguy cơ ngập lụt cao. Cần hướng sự phát triển vào các khu vực an toàn hơn và giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa trên những dữ liệu rủi ro được thường xuyên cập nhật. Tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công bằng cách tích hợp thông tin rủi ro vào các giai đoạn lập kế hoạch, thiết kế và bảo trì của tất cả các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng. Cần nâng cấp đê biển và đê sông, bắt đầu từ những khu vực rủi ro nhất và được bảo vệ kém nhất. Khai thác các giải pháp dựa vào thiên nhiên thông qua việc phục hồi, bảo tồn, giám sát và quản lý các hệ sinh thái. Cần tăng cường các chính sách, khung pháp lý và hướng dẫn kỹ thuật có liên quan. Nâng cao năng lực phòng ngừa và ứng phó với thiên tai thông qua việc nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm, tăng cường năng lực ứng phó của địa phương, điều chỉnh mạng lưới bảo trợ xã hội và thực hiện một chiến lược huy động vốn toàn diện để ứng phó với rủi ro. Thực hiện những hành động mang tính quyết định này, Việt Nam có cơ hội bảo vệ sự thịnh vượng của các thế hệ tương lai trước những rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu. Các nguồn tài liệu khác Bản báo cáo đầy đủ
Nhằm đóng góp vào “Hội nghị Diên Hồng về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội, Chủ tịch Trung Nguyên Legend - Đặng Lê Nguyên Vũ đã gửi cho chúng tôi bài viết dưới đây từ núi M" đang xem Thiên cơ về việt nam Dù cho có hàng chục ngàn định nghĩa khác nhau được gọi theo phương diện rộng hay hẹp về văn hóa nhưng bao trùm tất cả, văn hóa chỉ có giá trị khi đặt trong tương quan với văn minh; đặc biệt là khi chúng ta xem xét chủ thể văn hóa ở đây là cấp độ Văn hóa Quốc gia - Văn hóa Dân tộc. Luận điểm này đưa đến hai kết luận quan trọng. Một là, nội hàm bản chất và toàn vẹn nhất của văn hóa cũng phải đồng dạng với các đặc tính của văn minh hoặc để kiến tạo văn minh. Đó là sự toàn vẹn và đầy đủ của hệ giá trị Chân-Thiện-Mỹ tuần hoàn. Nói cụ thể hơn, văn hóa phải mang tính khoa học, tính thực tế, tính hiệu dụng; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị đạo đức, luân lý, nhân văn, nhân bản, nhân sinh và kể cả môi sinh; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị của cái đẹp trong nghệ thuật, giải trí, các hoạt động cộng đồng của con người cho đến mối tương tác của con người với tự nhiên. Các định nghĩa được coi là hẹp của văn hóa hiện nay chỉ bao hàm các hoạt động giải trí nghệ thuật của tính Mỹ, các định nghĩa được coi là rộng hơn thì bao hàm một phần của tính Thiện và rất ít nhắc đến tính Chân, và gần như không đặt các giá trị Chân-Thiện-Mỹ này trong tính tuần hoàn, tương tức như chính sắp đặt tự nhiên của Tạo Hóa. Hai là, nền văn hóa của một quốc gia-dân tộc sẽ được định dạng thành hai nhóm cơ bản Nhóm thứ nhất là Văn hóa kiến tạo văn minh và nhóm thứ hai là Văn hóa hấp thụ văn minh. Và mối quan hệ này là mối quan hệ động, vận động đồng hành với diễn trình phát triển của nhân loại, không hề có văn hóa đứng yên, không thể có văn minh không vận động. Do vậy, mệnh đề căn cốt, cần thiết và có ý nghĩa mang tính sống còn cho quốc gia-dân tộc Việt Nam ở lĩnh vực văn hóa cần phải được đặt trong tương quan với bản đồ và diễn trình phát triển văn minh của nhân loại. Theo đó, văn hóa Việt Nam là thuộc nền văn minh nào, đã từng có khả năng kiến tạo văn minh hay chưa? Tương lai chúng ta muốn nền văn hóa Việt Nam nằm trong một nền văn minh như thế nào, và văn hóa Việt Nam có vai trò gì trong nền văn minh đó - là sáng tạo chủ động hay hấp thụ bị động với văn minh? Quán xét lại toàn bộ lịch sử biện chứng của nhân loại chúng ta có thể thấy rõ, đó chính là quá trình hình thành, va chạm, xung đột, giao thoa, hòa nhập và phát triển của các nền văn hóa, văn minh được dẫn dắt, dẫn đạo chủ lưu bởi các nền văn hóa có khả năng kiến tạo văn minh. Đó là các nền văn hóa mạnh, làm nền tảng cho các nền văn minh thêm "Ông Vua Xe Hơi" Henry Ford Vua Xe Hơi Henry Ford, Ông Vua Xe Hơi Henry Ford Trong thời tiền sử, các yếu tố địa kinh tế tự nhiên đã định hình nhân loại thành 4 nhóm văn hóa lớn, cũng là bốn nền tảng lớn để định hình phát triển văn minh; đó là văn hóa Nông Nghiệp Đất Liền lúa cạn, lúa nước, Nông Nghiệp Biển, Du Mục Đất Liền, và Du Mục Biển. Ở thời cổ đại, văn hóa và đặc biệt là yếu tố tôn giáo của các dân tộc nòng cốt, đã tạo nên các nền văn minh cổ đại hùng vĩ như văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Từ những cái nôi văn minh cổ đó, các quốc gia-dân tộc khác đã hấp thu, chọn lọc một cách tự nguyện và/hoặc cưỡng chế để định hình nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Trong thời cận đại và hiện đại, ý thức hệ chính trị một lần nữa phân chia văn minh nhân loại ra làm bốn nhóm tư bản, cộng sản, phát xít, và chủ nghĩa dân tộc không liên kết - không chọn phe ý thức hệ, các hệ giá trị này lại được hấp thụ và chuyển hóa thêm lớp nữa vào văn hóa của các quốc gia hiện đại, để hình thành nên bức tranh tổng thể gồm định dạng văn hóa cơ bản cho 216 quốc gia và vùng lãnh thổ độc lập như hiện nay với 3 nhóm văn minh lớn là văn minh phương Đông, văn minh phương Tây, và văn minh Giao thoa. Hòa chung dòng chảy lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, nền văn hóa quốc gia-dân tộc Việt Nam mang trong mình đặc trưng thích nghi - sinh tồn thụ động; đặc trưng này hay được nhiều học giả gọi là hài hòa thiên về âm tính, nhưng thực ra đó chỉ là sự thích nghi chứ chưa đạt được tính hài hòa; khả năng sinh tồn cho thấy sức mạnh chỉ được biểu hiện rõ ràng trong các điều kiện chiến tranh hay thảm họa ngặt nghèo, tính thụ động là sự miêu tả cụ thể và chính xác hơn cho tính âm. Văn hóa Việt Nam, vì vậy, thuộc nhóm các nền văn hóa hấp thụ văn minh đa lớp từ các nước lớn như văn minh Trung Hoa, Ấn Độ trong thời cổ đại, cho đến các lớp văn hóa khác nhau từ phương Tây trong thời cận đại và hiện đại; và chưa từng là một nền văn hóa có đủ sức mạnh để kiến tạo văn minh. Vậy thì tiếp theo, câu hỏi chiến lược đặt ra ở đây sẽ là liệu chúng ta có nên và có thể tiếp tục xây dựng một nền văn hóa hấp thụ văn minh hay không, nếu có thì nên hấp thụ từ những nền văn minh nào trên thế giới? Hay giờ đây chính là thời điểm lịch sử và chúng ta bắt buộc và chúng ta hoàn toàn có khả năng để định hướng xây dựng một nền văn hóa kiến tạo văn minh? Việc duy trì hình thái văn hóa tiếp thu văn minh hiện nay sẽ trở nên ngày càng khó khăn và kém hiệu quả, thậm chí ngày càng nguy hiểm khi mà hiện trạng của các nền văn minh lớn, các siêu cường quốc, quốc gia chủ chốt trong các nền văn minh đều đang đối mặt với các thách thức hỗn loạn riêng; đồng thời với việc va chạm, mâu thuẫn, đối nghịch, xung đột đang ngày càng leo thang giữa các siêu cường quốc, cũng như giữa các nhóm quyền lực cũ với các nhóm quyền lực công nghệ mới. Thực trạng văn hoá - văn minh toàn cầu bị tha hóa trầm trọng chưa từng có, mặc cho các thành tựu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ hào nhoáng bên ngoài; các giá trị đạo đức cơ bản bị băng hoại và không còn nữa, thay vào đó, chỉ là ngôn ngữ bề ngoài để lừa mị và nhân danh các lợi ích mang tính vị kỷ, cục bộ. Thế giới mà nhân loại hiện đang sống đang phải đối mặt với hai đại vấn nạn. Một là, việc chạy theo lợi ích vật chất của con người đã tàn phá nặng nề môi sinh, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu khiến cho ngôi nhà chung Trái Đất của nhân loại trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Hai là, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ-chủ nghĩa quốc gia vị kỷ đang trỗi dậy, thống trị và hoành hành ở khắp nơi, đặc biệt là các cường quốc; tại mỗi cường quốc, chủ nghĩa vị kỷ lại thúc đẩy tinh thần dân tộc–tinh thần quốc gia theo các hình thái cực đoan khác nhau nhưng tựu chung lại là gây chia rẽ và bất ổn; đồng thời, chủ nghĩa vị kỷ đó đang hành hạ và tha hóa mọi cấp độ dưới quốc gia cá nhân, gia đình, dòng tộc, tổ chức,… cho tới mọi định chế liên quốc gia. Hai đại vấn nạn đó cộng hưởng với nhau tạo thành nguy cơ ngày càng hiện hữu của Tứ Đại Hủy Diệt nạn đói, chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai cùng lúc diễn ra để phán xét và tiêu diệt nhân loại.
I. Đặc điểm cơ bản của tôn giáo ở Việt Nam-Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo Việt nam là quốc gia đa dân tộc, có 54 dân Nam có khoảng 13 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhânPhật giáo , Công Giáo , Hồi giáo , Tin lành , Cao Đài , Phật Giáo Hòa Hảo , Tứ Ân Hiếu Nghĩa , Bửu Sơn Kỳ Hương , Baha'i , Minh Lý đạo - Tam Tông miếu , Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư Đạo , Tịnh độ Cư sĩ Phật hội , Bà la môn và trên 40 tổ chức tôn giáo đã được công nhận về mặt tổ chức hoặc đã đăng ký hoạt động với khoảng 24 triệu tín đồ , chức sắc , chức việc và hơn cơ sở thờ tự . Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác nhau . Có tôn giáo du nhập từ bên ngoài , với những thời điểm , hoàn cảnh khác nhau , như Phật giáo , Công Giáo , Tin lành , Hồi giáo ; có tôn giáo nội sinh , như Cao Đài , Hòa Hảo. -Tôn giáo ở Việt Nam thì đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và gần như không có xung đột, đấu tranh tôn giáo điểm nổi bậtViệt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa thế giới . Các tôn giáo ở Việt Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và truyền thống lịch sử . Mỗi tôn giáo ở Việt Nam có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau , nên sự gắn bó với dân tộc cũng khác nhau . Tín đồcủa các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình trên một địa bàn , giữa họ có sự tôntrọng niềm tin của nhau và chưa từng xảy ra xung đột , chiến tranh tôn giáo . Thực tế cho thấy , không có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam mà không mang dấu ấn , không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa Việt Nam Ví dụ Nhìn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc việt nam thì các tôn giáo ở việt nam có sự đa dạng về nguồn gốc về truyền thống lịch sử và mỗi tôn giáo ở việt nam đều có quá trình tồn tại và phát triển khác nhau nhưng đều tồn tại và gắn bó với dân tộc, tín đồ của tôn giáo dù khác nhau nhưng cùng chung sống hòa bình trên 1 địa bàn. Giữa những ngườitheo tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng tôn giáo họ đều tôn trọng nhau. Và những người có tín ngưỡng tôn giáo thì tôn trọng niềm tin của thì tin vào Đức Phật, người thì tin vào Chúa và Đức Chúa Trời. Do đó trong suốt chiều dài lịch sử VIệt Nam thì không xảy ra xung đột chiến tranh tôn giáo. Các tôn giáo ở bên ngoài du nhập vào Việt Nam có thể bằng cách này hay bằng cách khác thì đều mang dấu ấn và chịu ảnh hưởng lớn của bản sắc văn hóa việt nam và cùng với dân tộc, gắn bó đồng hành với dân tộc, tiến hành đấu tranh gìn giữ độc lập chủ quyền. Điển hình là Phật giáo, Phật giáo đã vào rất lâu rồi và được coi là bản sắc dân tộc Việt Nam, nên trong hồ sơ lý lịch nếu người nào khi không theo tôn giáo thì coi người đó đều ảnh hưởngbởi quan niệm triết lý của giáo lý Phật giáo.
thiên cơ về việt nam