thuyết trình về bình đẳng giới
Đảm bảo bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số là góp phần nâng cao chất lượng dân số Dân số và phát triển GiadinhNet - Thời gian qua, mặc dù các cấp ngành đã có nhiều chương trình, chính sách nhằm đảm bảo bình đẳng giới (BĐG) nhất là trong vùng dân tộc thiểu số (DTTS). Tuy nhiên vẫn còn có những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện.
The Pizan Project là một dự án phi lợi nhuận do các học sinh, sinh viên toàn cầu sáng lập và lãnh đạo. Với sứ mệnh giáo dục và truyền cảm hứng nhằm nâng cao ý thức cộng đồng về tầm quan trọng của bình đẳng giới trong xã hội, dự án hứa hẹn sẽ mang đến những góc nhìn và tư duy đổi mới, đa chiều xoay
Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia . 4. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục Hiện tượng. Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới
Vay Tiền Online Me. Bình đẳng giới là quyền của con người. Phụ nữ được quyền sống xứng đáng với nhân phẩm, có thể làm điều mình mong muốn và không sợ hãi. Bình đẳng giới còn là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển và giảm nghèo. Phụ nữ được trao quyền sẽ góp phần cải thiện sức khỏe và năng suất lao động của cả gia đình và cộng đồng, đồng thời củng cố triển vọng cho thế hệ tương lai. Bạo lực dựa trên cơ sở giới BLG là một biểu hiện của bất bình đẳng giới được duy trì bởi cấu trúc quyền lực và mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ. Tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ BLPN của Việt Nam vẫn ở mức cao, và chưa được giải quyết hiệu quả. Kết quả nghiên cứu quốc gia năm 2019 về bạo lực đối với phụ nữ BLPN cho thấy gần 2/3 phụ nữ trong độ tuổi từ 15-64 đã từng trải qua ít nhất một hình thức bạo lực về thể chất, tình dục, tinh thần cảm xúc và hành vi kiểm soát và/hoặc bạo lực kinh tế bởi chồng/bạn tình ở một số thời điểm trong cuộc đời và 31,6% trong 12 tháng qua. BLPN vẫn bị che giấu khi hơn 90% không tìm kiếm sự trợ giúp từ các dịch vụ công và một nửa số phụ nữ bị bạo lực không nói với ai về tình trạng của mình. BLPN không chỉ gây hậu quả nặng nề cho bản thân người phụ nữ mà còn cho nền kinh tế quốc dân. Tổn thất năng suất lao động quốc gia do BLPN tương đương 1,81% GDP năm 2018 ở Việt Nam – một tổn thất không nhỏ đối với nền kinh tế quốc dân. Lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới được xác định là nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh TSGTKS ở Việt Nam. Yếu tố chính thúc đẩy hành vi lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới của nhiều cặp vợ chồng là tâm lý ưa thích có con trai, vốn bắt nguồn từ văn hóa truyền thống và hệ thống gia đình phụ hệ. Con trai trưởng thành thường có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ về già, vì vậy thường ở chung nhà với cha mẹ. Các chuẩn mực tôn giáo và xã hội đòi hỏi con trai phải đảm nhận việc thờ cúng tổ tiên và các sự kiện quan trọng khác trong cuộc sống. Về mặt xã hội, có con trai giúp nâng cao địa vị của cha mẹ và con trai thường được ưu ái trong thừa kế đất đai, tài sản. Tâm lý ưa thích có con trai là biểu hiện mạnh mẽ của bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với nữ giới. Tổng hợp ba yếu tố là tâm lý ưa thích có con trai, sự phổ biến của công nghệ lựa chọn giới tính, mức sinh thấp và hạn chế đã tạo điều kiện văn hóa - xã hội cho hành vi lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới thiên về con trai, tăng tình trạng mất cân bằng TSGTKS lên 111,5 bé trai/ 100 bé gái vào năm 2019, cao thứ ba châu Á sau Trung Quốc và Ấn Độ. Ở một số tỉnh, TSGTKS mất cân bằng này thậm chí còn vượt quá 126. Khi so sánh với TSGTKS tự nhiên 105 bé trai/100 bé gái, thực trạng tại Việt Nam cho thấy mức thiếu hụt trẻ em gái năm 2019 là trẻ. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ gây ra tác động về nhân khẩu học. Ví dụ, đối với nhóm tuổi trưởng thành từ 15–49 tuổi, số lượng nam giới sẽ nhiều hơn nữ giới 1,5 triệu người vào năm 2034. Con số này ước tính sẽ tiếp tục tăng lên gần 2,5 triệu nam giới dư thừa vào năm 2059 nếu TSGTKS không giảm. Đó là xu hướng mà các nhà nhân khẩu học thường gọi là “sức ép hôn nhân”, trong đó nam giới có xu hướng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm bạn đời. Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ không chỉ ảnh hưởng đến nam giới mà còn ảnh hưởng đến nữ giới, và số lượng phụ nữ giảm không có nghĩa là giá trị của phụ nữ và trẻ em gái tăng lên. Ngược lại, nỗ lực tìm kiếm bạn tình có thể khiến nạn tảo hôn, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, bạo lực đối với phụ nữ và mại dâm gia tăng đáng kể. UNFPA tại Việt Nam Để đạt được những kết quả mang tính chuyển đổi của UNFPA, hướng đến mục tiêu không để xảy ra bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái cũng như các thực hành có hại khác, UNFPA Việt Nam ưu tiên Vận động dựa trên bằng chứng và tư vấn chuyên môn nhằm sửa đổi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cùng các luật và chính sách liên quan khác phù hợp với những thực hành tốt nhất trên thế giới nếu thích hợp; Các sáng kiến huy động cộng đồng dựa trên bằng chứng trong bối cảnh chuyển đổi số, đặc biệt hướng đến đối tượng thanh niên và trẻ vị thành niên, với sự tham gia của nam giới và trẻ em trai nhằm ngăn chặn BLG và các thực hành có hại tập trung vào các nhóm dễ bị tổn thương; và Thí điểm các chiến lược dựa trên bằng chứng và sáng tạo nhằm thu hút sự tham gia của nam giới, từ đó giải quyết vấn đề nam tính độc hại và vun đắp các mối quan hệ lành mạnh. Ngoài ra, UNFPA Việt Nam còn phát triển các hệ thống toàn diện, phối hợp ở cấp trung ương và địa phương để cung cấp các dịch vụ đa ngành chất lượng cao cho nạn nhân BLG. Chương trình được đề xuất sẽ hỗ trợ Cơ quan nhà nước mở rộng và thể chế hóa các trung tâm dịch vụ một cửa chuyên cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hòa nhập phù hợp với Hướng dẫn về Gói Dịch vụ Thiết yếu của Liên hợp quốc, trong đó có chăm sóc sức khỏe và tâm lý, các dịch vụ xã hội, đảm bảo an ninh và tư vấn pháp luật; Xây dựng các hướng dẫn quốc gia về phối hợp đa ngành ứng phó với BLG, làm rõ vai trò và trách nhiệm của từng ngành và thiết lập cơ chế chuyển gửi để cung cấp dịch vụ lấy nạn nhân làm trung tâm bao gồm NKT, dân tộc thiểu số và lao động nhập cư; Tăng cường quản trị, phối hợp đa ngành ở cấp trung ương và địa phương, áp dụng cho chương trình về mối quan hệ giữa nhân đạo và phát triển; và Tăng cường hệ thống dữ liệu hành chính về BLG để đảm bảo thu thập dữ liệu lấy nạn nhân làm trung tâm, từ đó tăng cường xây dựng chương trình về BLG.
Bài làm Vấn đề bình đẳng giới là vấn đề đang được cộng đồng và xã hội quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều nguồn thông tin bàn bạc và vấn đề này. Tuy nhiên, với bài thuyết trình này, em tự tin có thể trình bày một cách ngắn gọn, đầy đủ và chính xác nhất về vấn đề bình đẳng giới hiện nay. Sau đây là bài thuyết trình của em. Trước hết, chúng ta cần tìm hiếu bình đẳng giới là gì? Và những biểu hiện rõ ràng và cụ thể nhất cho vấn đề bình đẳng giới như thế nào? Thực tế, con người từ xa xưa đã chia thế giới ra thành hai giới tính Nam và Nữ. Bình đẳng giới tính là việc không phân biệt giới tính một cách tiêu cực và thái quá, luôn luôn có thái độ, đối xử công bằng giữa nam và nữ trong mọi công việc, trong mọi hoàn cảnh. Bình đẳng giới có rất nhiều biểu hiện cụ thể và rõ ràng như sau Đối xử công bằng giữa nam và nữ, không miệt thị nữ giới và quá đề cao nam giới. Các hộ gia đình hiện nay không còn giữ quan niệm trọng nam khinh nữ, không còn giữ hủ tục gia trưởng nữa. Các cơ quan, các cấp chính quyền cũng đã nới lỏng cho phép nữ giới góp mặt, tham gia vào các vấn đề của tỉnh/thành, quốc gia và thậm chí là quốc tế. Vai trò và địa vị của người phụ nữ cũng ngày càng được nâng cao và khẳng định. Vậy bình đẳng giới sẽ mang lại cho cá nhân mỗi con người, gia đình, cộng đồng và xã hội những ích lợi như thế nào? Đối với cá nhân mỗi con người Nữ giới sẽ có thêm nhiều cơ hội tham gia vào những công việc chung và khẳng định được bản thân mình, không còn bị phụ thuộc vào những người khác; nam giới sẽ không còn quá nặng nề với những gánh nặng, trọng trách đè nặng lên vai nữa. Bình đẳng giới còn góp phần giúp cải thiện xã hội, cân bằng cuộc sống và giúp cho một quốc gia, một dân tộc phát triển theo chiều hướng tích cực, tìm được nhiều nhân tài hơn trong các lĩnh vực công nghệ, khoa học – đời sống xã hội. Phải làm sao duy trì được tình trạng bình đẳng giới. Các cấp có chính quyến cần phải đẩy mạnh, thiết lập, thực hiện và duy trì các chính sách về sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình “Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ”. Đặc biệt, mỗi công dân cần phải nâng cao ý thức, hiểu rõ hơn về vấn đề giới tính. Trên đây là bài thuyết trình của em về bình đẳng giới. Cảm ơn mọi người đã lắng nghe! Thống kê tìm kiếmhttps//baigiangvanhoc com/thuyet-trinh-ve-van-binh-dang-gioi-trong-gia-dinh-xa-hoi
thuyết trình về bình đẳng giới