thơ tình của nguyễn bính

Năm 2010 trên trang tienphong.vn Hoài Nam công bố bài Có một Nguyễn Bính thị thànhđã điểm qua một số nét tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ ông khi đối diện với thành phố, mang lại gợi mở quý báu cho nghiên cứu vấn đề thành thị trong thơ Nguyễn Bính. Nói ngay Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, cả ba đều có những ám ảnh vườn, nhưng mỗi vị một khác. Với Xuân Diệu là vườn tình, nó có bóng dáng của những hoa viên, nơi dành riêng cho luyến ái trần thế. Với Hàn Mặc Tử, vườn lại là "chốn nước non thanh tú", có Trong số những bài thơ tình của thi sĩ Nguyễn Bính, "Qua nhà" là bài thơ khá độc đáo. Xét về ý tứ, bố cục "Qua nhà" chia làm hai phần khá rõ: Tư tưởng tình cảm của nhân vật trữ tình "tôi" đối với cô gái thầm yêu, trộm nhớ trước và sau khi cô gái đi lấy chồng. Tình yêu là lĩnh vực tình cảm cực kỳ tế nhị, phức tạp và đặc biệt bậc nhất của con người. Vay Tiền Online Me. Thơ tình Nguyễn Bính luôn đọng lại trong lòng độc giả chút nhớ thương trong tình yêu đôi lứa. Thơ tình Nguyễn Bính là cả một bức tranh muôn màu sắc với bao nhiêu cung bậc cảm xúc khi yêu ẩn sau trong đó. Những câu thơ sâu lắng, nhẹ nhàng luôn được độc giả đón đọc và chia chỉ thể hiện niềm hạnh phúc, yêu thương của những người đang yêu mà thơ tình Nguyễn Bính còn lột tả chân thật những nỗi niềm day dứt khi những cuộc tình đã đi đến sự chia tay. Dưới đây là những bài thơ tình Nguyễn Bính đặc sắc, mời bạn đọc cùng xem và cảm nhận Chân quêVan em, em hãy giữ nguyên quê mùa Như hôm em đi lễ chùa Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê Hôm qua em đi tỉnh về Hương đồng gió nội bay đi ít Những bóng người trên sân gaNhững cuộc chia lìa khởi từ đây Cây đàn sum họp đứt từng dây Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc Lần lượt theo nhau suốt tối ngày. Có lần tôi thấy hai cô bé Sát má vào nhau khóc sụt sùi Hai bóng chung lưng thành một bóng – “Đường về nhà chị chắc xa xôi?” Có lần tôi thấy một người yêu Tiễn một người yêu một buổi chiều Ở một ga nào xa vắng lắm Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu… Có lần tôi thấy vợ chồng ai Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài Chị mở khăn giầu, anh gói lại “Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!”3. Bóng bướmCành dâu cao, lá dâu cao Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em. Anh đi đèn sách mười niên Biết rằng bóng bướm có lên kinh dâu xanh, lá dâu xanh Một mình em hái, một mình em thương. Mới rồi mãn khoá thi hương Ngựa điều, võng tía qua đường những ai?4. Cái quạtCái quạt mười tám cái nan Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung Gió sông, gió núi, gió rừng Anh niệm thần chú thì ngừng lại Nam Bắc, gió Đông Tây Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm Em ơi công chúa là em Anh là quan trạng đi xem hoa vềTrên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Quạt này trạng để làm tin Đêm nay khép mở tình duyên với Sao chẳng về đâyLối đỏ như son tới xóm Dừa, Ngang cầu đã điểm hạt mưa thưa, Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên, Đêm đêm quán trọ thức thi đèn. Xót xa một buổi soi gương cũ Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ đợi mà xuân vẫn cứ sang Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng. Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị Tôi đã về đây rất vội đây vô số những trời xanh Và một con sông chảy rất lành, Và những tâm hồn nghe rất đẹp Từng chung sống dưới mái nhà chẳng về đây múc nước sông Tưới cho những luống có hoa hồng? Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở Phô nhuỵ vàng hây với cánh chẳng về đây bắt bướm vàng Nhốt vào tay áo, đợi xuân sang, Thả ra cho bướm xem hoa nở Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương?Sao chẳng về đây có bạn hiền, Có hương, có sắc, có thiên nhiên Sống vào giản dị, ra tươi sáng Tìm thấy cho lòng một cảnh tiên?Sao chẳng về đây lục tứ thơ Hỡi ơi, hồn biển rộng không bờ Chùm hoa sự nghiệp thơm muôn thuở Thiên hạ bao nhiêu kẻ đợi chờ?Sao chẳng về đây, nỡ lạc loài Giữa nơi thành thị gió mưa phai Chết dần từng nấc, rồi mai mốt Chết cả mùa xuân, chết cả đời?Xuân đã sang rồi em có hay Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy Kinh kỳ bụi quá, xuân không đến Sao chẳng về đây? Chẳng ở đây?6. Tâm hồn tôiTâm hồn tôi là bình rượu nhỏ Rót lần rót mãi xuống nàng Oanh Không xua tay nhưng nàng đã vô tình Hất ly rượu hồn tôi qua cửa sổ…7. Đôi mắtVò nhàu chéo áo làm vui Ướt đôi mắt đẹp nhìn tôi nặng tình Sông đầy lạnh bến dừa xanh Kể từ ngày cưới xa anh lần đầu Chiều quê lùi lại sau tàu Mắt em sáng mãi chòm sao trên trời Đưa chồng vượt biển ra khơi Đêm đêm con mắt vì tôi thức ròng… Miền Nam em đứng trông chồng Đầu sông ngọn sóng một lòng đinh ninh Có trong đôi mắt em xinh Ánh hồ Gươm biếc in hình ảnh tôi Xóm thưa bằn bặt tiếng cười Lúa non đổ bãi, trái tươi rụng vườn Mắt em sực tỉnh lửa hờn Trái ngon lại chín, lúa thơm lại vàng Nghiêng đầu hôn tóc con ngoan Mắt em giếng ngọt mơ màng trăng thanh Con nhìn mắt mẹ long lanh Đẹp lời sông núi thắm tình cha conMây bay tóc phố đầu thôn Anh thương đôi mắt vẫn tròn ánh sao Mây thu thăm thẳm từng cao Mắt em rót sáng thêm vào mắt anhĐường về dựng suối treo ghềnh Chân ta vững bước, mắt mình rối trông Chiều quê lại ngát hương đồng Đêp sao đôi mắt tiễn chồng hôm xưa…8. Lỡ bước sang ngangEm ơi! em ở lại nhà Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em, em ở lại nhà Vườn dâu em đốn, mẹ già em thươngHôm nay xác pháo đầy đường Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng Chuyến này chị bước sang ngang Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây Rượu hồng em uống cho say Vui cùng chị một vài giây cuối cùng Rồi đây sóng gió ngang sông Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ Miếu thiêng vụng kén người thờ Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em Đêm qua là trắng ba đêm Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn Một vai gánh lấy giang san… Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương Mắt quầng tóc rối tơ vương Em còn cho chị lược gương làm gì! Một lần này bước ra đi Là không hẹn một lần về nữa đâu Cách mấy mươi con sông sâu Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh Cũng là thôi cũng là đành Sang sông lỡ bước riêng mình chị sao? Tuổi son nhạt thắm phai đào Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người! Em đừng khóc nữa em ơi! Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em! Một đi bảy nổi ba chìm Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần Dù em thương chị mười phần Cũng không ngăn nổi một lần chị điChị tôi nước mắt đằm đìa Chào hai họ để đi về nhà ai Mẹ trông theo, mẹ thở dài Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran Tôi ra đứng tận đầu làng Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa…Trời mưa ướt áo làm gì? Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng Người ta pháo đỏ rượu hồng Mà trên hồn chị một vòng hoa tang Lần đầu chị bước sang ngang Tuổi son sông nước đò giang chưa tường Ở nhà em nhớ mẹ thương Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ Mẹ ngồi bên cửi xe tơ Thời thường nhắc “- Chị mày giờ ra sao?”Chị bây giờ… nói thế nào? Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang Chị từ lỡ bước sang ngang Trời dông bão giữa tràng giang lật thuyền Xuôi dòng nước chảy liên miên Đưa thân thế chị tới miền đau thương Mười năm gối hận bên giường Mười năm nước mắt bữa thường thay canh Mười năm đưa đám một mình Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên Mười năm lòng lạnh như tiền Tim đi hết máu mà duyên không vềNhưng em ơi! một đêm hè Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn Dừng chân trên bến sông buồn Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang Đoái thương thân chị lỡ làng Đoái thương phận chị dở dang những ngày Rồi… rồi chị nói sao đây? Em ơi! nói nhỏ câu này với em… Thế rồi máu trở về tim Duyên làm lành chị duyên tìm về môi Chị nay lòng ấm lại rồi Mối tình chết đã có người hồi sinh Chị từ dan díu với tình Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng Tim ai khắc một chữ “nàng” Mà tim chị một chữ “chàng” khắc theo Nhưng yêu chỉ để mà yêu Chị còn dám ước một điều gì hơn Một lầm hai lỡ keo sơn Mong gì gắn lại phím đờn ngang cung Rồi đêm kia lệ ròng ròng Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về Tháng ngày qua cửa buồng the Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùaÚp mặt vào hai bàn tay Chị tôi khóc suốt ba ngày ba đêm – Đã đành máu trở về tim Nhưng khôn buộc nổi cánh chim giang hồ Người đi xây dựng cơ đồ Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh xuân Người đi khoác áo phong trần Chị về may áo liệm dần nhớ thương Hồn trinh ôm chặt chân giường Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây Năm xưa đêm ấy giường này Nghiến răng nhắm mắt cau mày… cực chưa? Thế là tàn một giấc mơ Thế là cả một bài thơ não nùng Tuổi son má đỏ môi hồng Bước chân về đến nhà chồng là thôi Đêm qua mưa gió đầy giời Mà trong hồn chị có người đi qua Em về thương lấy mẹ già Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công Chị giờ sống cũng bằng không Coi như chị đã ngang sông đắm Đóa hoa hồngThưa đây, một đoá hoa hồng Và đây một án hương lòng hoang vu Đầu bù trở lại kinh đô Tơ vương chín mối sầu cho một lòng Tình tôi như đóa hoa hồng Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu Kinh đô cát bụi bay nhiều Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng?10. Bảy chữMây trắng đang xây mộng viễn hành, Chiều nay tôi lại ngắm trời xanh, Trời xanh là một tờ thư rộng, Tôi thảo lên trời mấy nét trọn năm dài trên vách đá, Bốn bề lá đổ ngợp hơi thu, Vừa may cánh nhạn về phương ấy, Tôi gửi cho nàng bức ngọc ngựa chiều nay ngập thị thành, Chiều nay nàng bắt được trời xanh, Đọc xong bảy chữ thì thương lắm, “Vạn lý tương tư, vũ trụ tình.”11. ChờHẹn cho một hẹn, anh chờ Em may áo nái bao giờ cho xong Lạy giời, tắt gió ngang sông Qua đò biếu áo yên lòng em tôi. Chị anh đi lấy chồng rồi. Anh mong tằm tốt bằng mười mọi Nàng đi lấy chồngHôm nay ăn hỏi tưng bừng Ngày mai thì cưới, độ chừng ngày kia Nàng cùng chồng mới nàng về Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng Tôi về dạm vợ là xong Vợ người làng, vợ xóm Đông quê mùa Vợ tôi không đợi, không chờ Không nhan sắc lắm, không thơ mộng gì Lấy tôi bởi đã đến thì Lấy tôi không phải bởi vì yêu tôi Hôm nay tôi lấy vợ rồi Từ đây tôi sẽ là người bỏ đi Pháo ơi, mày nổ làm gì? Biến ra tất cả pháo xì cho tao!13. Hái mồng tơiHoa lá quanh người lác đác rơi Cuối vườn đeo giỏ hái mồng tơi Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cườiCách vườn tiếng gọi khẽ đưa sang Rẽ lá cô em trốn vội vàng Quên giỏ mồng tơi bên dậu vắng Tôi đem nhặt lấy gởi đưa nàngNăm tháng ta vui chốn ngựa hồng Cảnh xưa gò ngựa một chiều đông Cây khô dậu đổ mồng tơi héo Cô bé nhà bên đã có Không ngủCó trăng bóng lạnh vườn đào Có giàn nhạc ngựa lơi vào trong đêm. Và trong lòng với con tim Có lời em, có bóng em rõ trăng, ai thả sang đoài Đêm khuya mở nhẹ then cài cửa ra. Trăng vào, bóng nữa là ba, Với em ở trái tim ta là Lại điMẹ tôi tóc bạc da mồi Thắt lưng buộc bụng một đời nuôi con Chị tôi phấn úa hương mòn Đò ngang sông cái chẳng tròn chuyến sang Cha tôi ngàn dặm quan san Có đâu như chuyện chia vàng giữa sông? Người yêu má đỏ môi hồng Tóc xanh, mắt biếc mà lòng bạc đen Về đây sống để mà quên Chiều chiều ngắm bóng chị hiền quay tơ Chị tôi im lặng đợi chờ Tôi im lặng đến bao giờ đợi ai? Chị tôi đã dở dang rồi Lẽ đâu tôi chịu một đời dở dang! Cha tôi dạ sắt gan vàng Lẽ đâu tôi chịu quy hàng phấn son Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn Ngày mai con lại lên đường ra Cô hái mơ Thơ thẩn đường chiều một khách thơ Say nhìn xa rặng núi xanh lơ Khí trời lặng lẽ và trong trẻo Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơHỡi cô con gái hái mơ già Cô chửa về ư? Đường thì xa Mà cái thoi ngày như sắp tắt Hay cô ở lại về cùng ta?Nhà ta ở dưới gốc cây dương Cách động Hương Sơn nửa dặm đường Có suối nước trong tuôn róc rách Có hoa bên suối ngát đưa hươngCô hái mơ ơi! Chả giả lời nhau lấy một lời Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…17. Thời trướcSáng giăng chia nửa vườn chè Một gian nho nhỏ đi về có nhau Vì tằm tôi phải chạy dâu Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay Chồng tôi thi đỗ khoa này Bõ công đèn sách từ ngày lấy tôi Kẻo không rồi chúng bạn cười Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa “Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng”Một quan là sáu trăm đồng Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi Chồng tôi cưỡi ngựa vinh qui Hai bên có lính hầu đi dẹp đàng Tôi ra đón tận gốc bàng Chồng tôi xuống ngựa cả làng ra xemĐêm nay mới thật là đêm Ai đem trăng sáng giãi lên vườn Nguyễn Bính GhenTương tư Nguyễn BínhThơ tìnhThơ Nguyễn Bính GhenThơ tình Nguyễn Bính vẽ nên những câu chuyện tình thật đẹp và đầy lãng mạn. Đó là những tâm tư, tâm tình thương nhớ người yêu hay cả những nỗi ghen tuông, giận hờ trách móc ở trong đó. Chính vì thế thơ tình Nguyễn Bính ghen luôn được các bạn trẻ săn đón, bởi đó là nơi gửi gắm nỗi niềm, đôi dòng tâm sự, bao nỗi ưu phiền khi yêu ở trong đó. Hòa dòng tâm sự của bạn cùng những lời thơ tình Nguyễn Bính đặc sắc ngay dưới đây để tìm được sự đồng cảm nhân tình bé của tôi ơi! Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười Những lúc có tôi và mắt chỉ… Nhìn tôi những lúc tôi xa muốn cô đừng nghĩ đến ai, Đừng hôn, dù thấy cánh hoa tươi, Đừng ôm gối chiếc, đêm nay ngủ… Đừng tắm chiều nay, biển lắm muốn mùi thơm của nước hoa, Mà cô thường xức, chẳng bay xa, Chẳng làm ngây ngất người qua lại, Dẫu chỉ qua đường, khách lại muốn những đêm đông giá lạnh Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp Một trẻ trai nào, trong giấc muốn làn hơi cô thở nhẹ. Đừng làm ẩm áo khách chưa quen. Chân cô in vết trên đường bụi Chẳng bước chân nào được dẫm là ghen quá đấy mà thôi, Thế nghĩa là yêu quá mất rồi Và nghĩa là cô là tất cả. Cô là tất cả của riêng tôi!—–o0o—–CÔ HÀNG XÓMNhà nàng ở cạnh nhà tôi, Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn Hai người sống giữa cô đơn, Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi Giá đừng có dậu mùng tơi, Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàngTôi chiêm bao rất nhẹ nhàng… Có con bướm trắng thường sang bên này Bướm ơi! Bướm hãy vào đây! Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi… Chẳng bao giờ thấy nàng cười, Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên Mắt nàng đăm đắm trông lên…Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi! Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi, Tôi buồn tự hỏi “Hay tôi yêu nàng?” — Không, từ ân ái lỡ làng, Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao? Tơ hong nàng chả cất vào, Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sangMấy hôm nay chẳng thấy nàng, Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong Cái gì như thể nhớ mong? Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng! Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng, Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưaTầm tầm giời cứ đổ mưa, Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm Cô đơn buồn lại thêm buồn, Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?Hôm nay mưa đã tạnh rồi! Tơ không hong nữa, bướm lười không sang. Bên hiên vẫn vắng bóng nàng, Rưng rưng… tôi gục xuống bàn rưng rưng… Nhớ con bướm trắng lạ lùng! Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ ơi! Bướm trắng tơ vàng! Mau về mà chịu tang nàng đi thôi! Đêm qua nàng đã chết rồi, Nghẹn ngào tôi khóc… Quả tôi yêu trinh còn ở trần gian? Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!—–o0o—–QUA NHÀCái ngày cô chưa có chồng Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa Lối này lắm bưởi nhiều hoa Đi vòng để được qua nhà đấy thôi Một hôm thấy cô cười cười Tôi yêu, yêu quá nhưng hơi mất lòng Biết đâu rồi chả nói chòng “Làng mình khối đứa phải lòng mình đây” Một năm đến lắm là ngày Mùa thu, mùa cốm vào ngay mùa hồng Từ ngày cô đi lấy chồng Gớm sao có một quảng đường mà xa Bờ rào cây bưởi không hoa Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo Lợn không nuôi, đặc ao bèo Giầu không, dây chẳng buồn leo vào giàn Giếng khơi mưa ngập nước tràn Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều—–o0o—–VÂNGLạ quá làm sao tôi cứ buồn Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn Làm sao tôi cứ tương tư mãi Người đã cùng tôi phụ rất trònThì ra chỉ có thế mà thôi Yêu đấy, không yêu đấy để rồi Mắc hẳn đường tơ sang cửi khác Dệt từng tấm mộng để dâng aiKhuyên mãi sơn cho chữ ái tình Mộng lòng trang điểm mãi cho xinh Có người đêm ấy khoe chồng mới “Em chửa yêu ai, mới có mình”Có người trong gió rét chiều đông Chăm chỉ đan cho trọn áo chồng Còn bảo” Đường len đan vụng quá! Lần đầu đan áo kiểu đàn ông”Vâng chính là cô chửa yêu ai Lần đầu đan áo kiểu con trai Tôi về thu cả ba đông lại Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời—–o0o—–XUÂN VỀĐã thấy xuân về với gió đông Với trên màu má gái chưa chồng Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trongTừng đàn con trẻ chạy xum xoe Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe Lá nõn nhành non ai tráng bạc Gió về từng trận gió bay điThong thả nhân gian nghỉ việc đồng Lúa thì con gái mượt như nhung Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòngTrên đường cát mịn một đôi cô Yếm đỏ khăn thâm trảy hội chùa Gậy trúc giắt bà già tóc bạc Lần lần tràng hạt niệm nam mô—–o0o—–GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒNăm xưa chở chiếc thuyền này Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều Để tôi mơ mãi, mơ nhiều “Tước đay se võng nhuộm điều ta đi Tưng bừng vua mở khoa thi Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng Võng anh đi trước võng nàng Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”Đồn rằng đám cưới cô to Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu Nhà gái ăn chín nghìn cau Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn Lang thang tôi dạm bán thuyền Có người trả chín quan tiền, lại thôiBuông sào cho nước sông trôi Bãi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ Có người con gái đan tơ Vẫy tay ý muốn sang nhờ bãi đay Sao cô không gọi sáng ngày Giờ thuyền tôi đã chở đầy thuyền mơ Con sông nó có hai bờ Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà—–o0o—–Bóng người trên sân gaNhững cuộc chia lìa khởi từ đây Cây đàn sum họp đứt tuôn dây Những lời bèo bọt, thân đơn chiếc Lần lượt theo nhau suốt tháng ngàyCó lần tôi thấy hai cô bé Sát má vào nhau khóc sụt sùi Hai bóng chung lưng thành một bóng – Đường về nhà chị chắc xa xôiCó lần tôi thấy một người yêu Tiễn một người yêu một buổi chiều ở một ga nào xa vắng lắm Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêuHai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau Kẻ ở sân ga kẻ cuối tàu Họ giục nhau về ba bốn bận Bóng nhòa trong bóng tối từ lâuCó lần tôi thấy vợ chồng ai Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài Chị mở khăn trầu anh thắt lại – Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!Có lần tôi thấy một bà già Đưa tiễn con đi một chốn xa Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng Lưng còng đổ bóng xuống sân gaCó lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Cân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân lyNhững chiếc khăn màu thổn thức bay Những bàn tay vẫy những bàn tay Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt Buồn ở đâu hơn ở chốn nàyTôi đã từng chờ những chuyến xe Đã từng đưa đón kẻ đi về Sao nhà ga ấy sân ga ấy Chỉ để cho lòng dấu biệt ly—–o0o—–Đàn tôiĐàn tôi đứt hết dây rồi Không người nối hộ, không người thay cho Rì rào những buổi gieo mưa Lòng đơn ngỡ tiếng quay tơ đằm đằm Có cô lối xóm hàng năm Trồng dâu tốt lá, chăn tằm ươm tơ Năm nay biết đến bao giờ Dâu cô tới lứa, tằm cô chín vàng ? Tơ cô óng chuốt mịn màng Sang xin một ít cho đàn—–o0o—–Truyện Cổ TíchEm ạ! Ngày xưa vua nước Bướm, Kén nhân tài mở Điệp lang khoa . Vua không lấy Trạng, vua thề thế . Con bướm vàng tuyền đậu Thám Hoa .Vua liền gọi gã con gái yêu, Nàng đẹp như em, chả nói điêu . Vua nuông hai vợ chồng phò mã, Cho nhỡn xem hoa sớm lại chiều .Một hôm hai vợ chồng quan Thám, Mê mãi xem hoa lạc lối về . Vợ khóc “Mình ơi! Em hãi lắm!” Trời chiều lạc lối tới vườn lê .Vườn đầy hoa trắng như em ấy, Bỗng một bà tiên hiển hiện ra . Sao mà đẹp thế! Tiên mà lại! Nữ chúa vườn lê đi thăm hoa .Bà thấy vợ chồng con bướm dại Sụt sùi ngồi khóc dưới hoa lê . Đến bên âu yếm, bà thương hại “Ý hẳn hai con lạc lối về ?”“Đây về nước Bướm đường thì xa, Về tạm nhà ta ngủ với ta . Có đủ chăn thêu cùng gối gấm, Có nhiều bánh ngọt ướp hương hoa …”Đêm ấy chăn êm và gối êm, Vợ chồng ăn bánh với bà tiên . Ăn xong thoát chốc liền thay lốt, Chồng hóa làm anh, vợ hóa em .—–o0o—–Cô Hái MơThơ thẩn rừng chiều một khách thơ, Say nhìn xa rặng núi xanh lơ, Khí trời lặng lẽ và trong trẻo, Thấp thoáng rừng mơ cô hái cô con gái hái mơ già! Cô chửa về ư ? Đường thì xa Mà ánh trời hôm dần một tắt Hay cô ở lại về cùng ta?Nhà ta ở dưới gốc cây dương Cách động Hương Sơn nửa dặm đường Có suối nước trong tuôn róc rách. Có hoa bên suối ngát đưa hái mơ ơi! Chẳng trả lời nhau lấy một lời. Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng. Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.—–o0o—–Đêm Sao SángĐêm hiện dần lên những chấm sao Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh Ai biết cầu Ô ở chỗ nào Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu Sao Hôm như mắt em ngày ấy Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tầuChòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi Lộng lẫy uy nghi một góc trời Em ở bên kia bờ vỹ tuyến Nhìn sao thao thức mấy năm rồiSao đặc trời cao sáng suốt đêm Sao đêm chung sáng chẳng chung miền Trời còn có bữa sao quên mọc Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em—–o0o—–Mùa Đông Đan áoĐã quyết không … không … được một ngày Rồi yêu mất cả buổi chiều nay Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá! Không biết là mưa hay nắng đây ?Lâu nay tôi thấy ở lòng tôi Như có tơ vương đến một người Người ấy , nhưng mà tôi chả nói Tôi đành ngậm miệng nữa mà thôi .Tôi quen ngậm miệng với tình xưa Tình đã sang sông đã tới bờ Tình đã trao tôi bao oán hận Và đem đi cả một thuyền mơ .Mơ có năm năm đã vội tàn , Có nàng đan mãi áo len đen . Có nàng áo đỏ đi qua đấy , Hương đượm ba ngày hương chưa tan .Mà hương đượm mãi ở hồn tôi , Tôi biết là tôi yêu mất rồi ! Tôi biết từ đây tôi khổ lắm , Chiều nay gió lạnh đấy , nàng ơi !Tất cả mùa đông đan áo len Cho người cho tất cả người quen Còn tôi người lạ , tôi người lạ , Có cũng nên mà không cũng nên .Oán đã bao la, hận đã nhiều Cớ sao tôi vẫn chả thôi yêu ? Tôi đi mãi mãi con đường ấy Qua lại hôm nay, sáng lại chiều .—–o0o—–Khăn Hồng Gửi ChịChị cho em chị chiếc khăn thêu, Ý chị thương em khóc đã nhiều. Khóc chị ngày xưa, giờ lại khóc, Cho mình khi tắt một tình yêu…Em nhớ mùa thu năm ngoái đây, Em sang thăm chị ở hai ngày. Vắng người em có thưa cùng chị “Em đã yêu và đã đắm say!”Đưa ảnh người yêu cho chị xem, Cả thư người ấy gửi cho em. Chị cười “Đáng sợ là đôi mắt, Chưa khóc bao lần đến trắng cứ yêu đi thực thuỷ chung, Yêu đi rồi chị tặng khăn hồng. Bao giờ … vui nhỉ! Về ăn cưới, Chắc chả như khi chị lấy chồng.”Em đi theo đuổi mãi tơ duyên, Dò mãi lòng sông, sắm mãi thuyền. Cho đến một hôm em mới nhớ “Lòng người….” Chị Trúc nhớ hay quên?Người ta đi lấy cái giàu sang, Rời cả keo sơn, bỏ đá vàng. Mới nửa đời người, em đã khóc, Hai lần hai truyện bước sang đi mất tích một mùa xuân, Đi để chôn vùi hận ái ân. Không hiểu nghe ai mà chị biết, Em về, chị gởi một vuông đã dùng khăn chị để lau Bao nhiêu nước mắt của u sầu. Em còn sợ nữa mùa thu tới, Người ấy còn đan áo nữa đâu!Em vẫn nghe lời chị …”thuỷ chung …” Cho nên khăn chị vẫn phai hồng. Đem thân về ở vườn dâu cũ, Buồn cũng như khi chị lấy tư Nguyễn BínhThơ tình Nguyễn Bính tràn đầy nỗi nhớ mong với người yêu. Bao nỗi tương tư khắc khoải đều được thể hiện trọn vẹn trong từng câu từng chữ của bài thơ ông viết. Nổi bật với bài thơ tương tư mang đến bao nhiêu nỗi niềm trông ngóng, đợi chờ trong bao nỗi cách trở không thể nói nên lời. Cùng đọc lại bài thơ tình Nguyễn Bính với tựa đề Tương tư, cùng một số bài thơ khác của Ông để cảm nhận hết nỗi nhớ trong tình yêu TưThôn oài ngồi nhớ thôn ông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh của trời Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàngBảo rằng cách trở đò giang Không sang là chẳng đường sang đã đành Nhưng đây cách một đầu đình Có xa xôi mấy mà tình xa xôiTương tư thức mấy đêm rồi Biết cho ai hỏi ai người biết cho, Bao giờ bến mới gặp đò Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhauNhà em có một giàn trầu Nhà tôi có một hàng cau liên phòng Thôn oài thì nhớ thôn ông Cau thôn oài nhớ trầu không thôn nào—————Hương cố nhânThuở trước loài hoa chửa biết cười Vô tình con bướm trắng sang chơi Khác nào tôi đã sang chơi đấy Rước bướm dừng chân. Hoa hé đấy loài hoa mới biết cười Cũng như nàng mới biết yêu tôi Hoa yêu dấu bướm cho nên bướm Quả quyết yêu hoa đến trọn dạy nàng yêu? Có phải là Nào ngờ hư đến thế là hoa! Hoa đi đón rước bao nhiêu bướm Từ bướm xuân xanh đến bướm chỉ thèm yêu lấy một lần Có người đi giữa xứ mùa xuân Thấy con bướm trắng bay thơ thẩn Ý hẳn đi tìm hương cố nhân. ————– Thư cho chịViết cho chị cánh thư này Một đêm lữ thứ em say rượu cần Nhớ người cách một mùa xuân Hình như người đã một lần sang sông Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng Rượu hay lệ ướt khăn hồng chị ơi! Làm sao giấc ngủ không dài Sao đêm không ngắn, mà trời cứ mưa ?Làm sao em sống như thừa Cố đem men rượu tẩm vừa lòng đau Kể từ hai đứa thôi nhau Em thường chả có đêm nào không say Sao em đơn chiếc thế này ? Sao em lại khóc như ngày chị đi …? Ở đây còn có vui gì! Vườn dâu xa lắm! lối về chị xa Con đường sang xóm Trữ La Cách một ngày ngựa, cách ba ngày đòLúc này em nghĩ mà lo Cứ thương nhớ mãi thì cho hết đời! Hôm qua có chuyến đò xuôi Toan về Hà Nội lại thôi không về Em trồng được một cây lê Hẹn bốn năm nữa thì về hái hoa Nhưng là vườn đất người ta Mình là khách trọ một vài đêm thôiSáng mai có lẽ em xuôi Nếu không đãng trí và trời không mưa Nhưng mà khăn gói gió đưa Lại về Hà Nội thì chưa muốn về Đò thuê, ngày ngựa cũng thuê Sang nhìn qua kẻ lỗi thì sang sông Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng Rượu hay lệ ướt khăn hồng chị cho? ——————- Nhớ người trong nắngHà Nội có hồ loạn tiếng ve, Nắng dâng làm lụt cả trưa hè, Năm xưa, một buổi đang mưa lụt Tôi tiễn chân người sang biệt buổi về đây, sầu lại sầu Người xa vời quá, ai thương đâu! Tôi đi ngửa mặt trên hè vắng Xem những cành cây nó cưới nhung trắng xoá cả mây trời, Trắng xoá hồn tôi, ai nhớ tôi? Hoa cuối cùng xoan rồi rụng hết Lấy gì phảng phất được màu môi?Có một trai hiền, một gái xinh Ngang qua, chừng giữa chuyện ân tình Trai cười “Bữa ấy mình toan giữ Mãi dấu môi son giữa má mình…”Cây bỗng thưa dần, bóng dãn ra Quanh tôi chỉ thấy nắng chan hoà, Hồn này lãng đãng trôi trong nắng Cho được trôi về bến Trữ La! ——————- Mùa đông đan áoĐã quyết không… không… được một ngày Rồi yêu mất cả buổi chiều nay Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá! Không biết là mưa hay nắng đây?Lâu nay tôi thấy ở lòng tôi Như có tơ vương đến một người Người ấy, nhưng mà tôi chả nói Tôi đành ngậm miệng nữa mà quen ngậm miệng với tình xưa Tình đã sang sông đã tới bờ Tình đã trao tôi bao oán hận Và đem đi cả một thuyền có năm năm đã vội tàn, Có nàng đan mãi áo len đen. Có nàng áo đỏ đi qua đấy, Hương đượm ba ngày hương chưa hương đượm mãi ở hồn tôi, Tôi biết là tôi yêu mất rồi! Tôi biết từ đây tôi khổ lắm, Chiều nay gió lạnh đấy, nàng ơi!Tất cả mùa đông đan áo len Cho người cho tất cả người quen Còn tôi người lạ, tôi người lạ, Có cũng nên mà không cũng đã bao la, hận đã nhiều Cớ sao tôi vẫn chả thôi yêu? Tôi đi mãi mãi con đường ấy Qua lại hôm nay, sáng lại chiều.————–Màu tím HuếThôi thế là em cách biệt rồi! Đường đi mỗi bước lại xa xôi Tim tím rừng chiều, tim tím núi Tim tím chiều hôm, tim tím maiBan chiều tim tím nhớ mong nhau Đêm tối kìa em tím rất nhiều Anh cúi xuống hôn màu tím giấy Thư về em, tím nét thương đauMai mốt rồi đây lầm cát bụi Anh lại đường xa trải kiếp người Tim tím rừng chiều, tim tím núi Chiều hôm nhiều tím thế em ơi! ——————– Hoa với rượuThấy rét u tôi bọc lại mền, Cô hàng cất rượu ủ thêm men, Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ, Say cả tư mùa cho khách nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi, Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi . Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ, Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi .Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà, Người ta bắt chước chị người ta! Ra vườn nhặt những hoa cam rụng, Về bỏ đầy nồi cất nước hoa .Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy, Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau . Hí hửng bảo nhau “Thơm đấy chứ, Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu!”Một tối nhà Nhi có giỗ thầy, Chị Nhi cho uống rượu cay cay, Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say .Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài, Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai. Chị Nhi cứ chế làm sao ấy, Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn Nhi thường nói với u tôi “–Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!” U tôi cười đáp ngay như thật “Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!”Thuở ấy làm sao thật thái bình, Trai hiền bạn với gái đồng trinh. Đời say men rượu thơm hoa rụng, Tràn những thơ ngây, ngập cảm thế mà rồi cách biệt nhau, Nhà Nhi không biết chuyển đi đâu . Mình tôi giời bắt làm thi sĩ, Mẹ mất khi chưa bạc mái lại vườn cam, bỏ mái gianh, Tôi đi dan díu với kinh thành. Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới, Chuốc mãi men say rượu ái ái tình kia thành thuốc độc, Vườn trần theo bướm phấn hương bay. Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc, Hoa hết thơm rồi rượu hết sầu nghìn tủi mình tôi chịu, Ba bốn năm rồi năm sáu năm. Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại, Men nồng gạo nếp nước hoa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi, Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi! Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ, Mộng ngát duyên lành cũng bỏ ở nơi nào dưới mái tranh, Chị em Nhi vẫn sốn yên lành. Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán, Hồn vẫn trong và mộng vẫn xưa con bé Nhi còn đẹp, Huống nữa giờ Nhi đã đến thì. Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ, Cho người thiên hạ phải say chị em Nhi ở mấy nhà? Bến đò đông vắng? Chợ gần xa? Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ? Vườn có trồng cam có nở hoa?Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng, Thực ra có phải thế này không. Chị Nhi đã lấy chồng năm trước, Nhi đến năm sau lại lấy chồng?Ước gì trên bước đường lưu lạc, Một buổi chiều nào lạnh gió mưa, Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ, Giật mình tôi thấy tiếng Nhi bên lò rượu đêm hôm đó, Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu. Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại, Ngậm ngùi hai đứa uống chung kể “U tôi đã mất rồi, Cửa nhà còn có một mình tôi …” Nhi rằng “Ngày trước u thường nói Hai đứa mình trông đến đẹp đôi …”“Chị em mới lấy chồng năm trước, Chồng chị trồng cam ở mé sông. Em ở mình đây nhà trống trải, Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông …”Như truyện Tương Như và Trác Thị Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng. Tôi với em Nhi kết vợ cất kỹ ngon, men ủ khéo, Say người thiên hạ lại say nhau . Chiều chiều hai đứa sang thăm chị, Chồng hái hoa cho vợ giắt ôi! Là mộng hay là thực? Là thực hay là mộng bấy lâu? Hai đứa sống bằng hoa với rượu, Sống vào trời đất, sống cho mộng mà thôi, mộng mất thôi, Hoa thừa rượu ế, ấy tình tôi. Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng, Gặp lại nhau chi muộn lắm tìnhNgoài những bài thơ tình Nguyễn Bính thì những bài thơ tình của những độc giả khác cũng được các bạn trẻ đón đọc và chia sẻ. Thơ tình như nói thay nỗi lòng bạn, tâm sự của bạn đến với người bạn thương một cách dễ dàng. Có đôi lúc, nỗi nhớ một người chẳng dám nói ra, cứ vậy một mình tương tư, trộm nhớ, cứ như vậy để cho tình cảm chôn chặt vào tìm. Thơ tình sẽ nói hộ tiếng lòng bạn, gửi gắm đến đối phương. Cùng đọc những bài thơ tình dưới đây để có động lực bộc lộ tình cảm của mình đến với người ấy nhéCái Nhìn Đầu TiênGiữa cuộc đời em chỉ nhìn có anh Cái nhìn đầu đã đượm màu thắm thiết Bởi chút duyên ẩn từ trong sâu thẳm Hay anh giống điều gần gũi trong nhẹ lòng anh vui vui tự hỏi Nhưng thấy cần chi giải thích rạch ròi Khi tim anh mãi đã có em rồi Và anh cũng nhận lòng anh rồi đã tặng anh bài thơ hay nhất Bài thơ hay phải đâu cần nhiều lời Anh giờ biết thơ giống như là tim Đã xúc động trước điều tươi thắm gặp hình hài niềm yêu trọn vẹn Về một sắc đậm đà trong tình đời Sau thấp thoáng cuộc đời ta đi qua Tim chợt thấy niềm tin hoà nhịp cây số chỉ con đường vời vợi Anh chẳng lo chẳng gì ngăn cách ta Một niềm yêu đã ngân mãi khúc ca Một bài ca ngân từ tim đập mãi. ————– Thơ tình viết tặng người tôi yêuPhượng ơi ai đã đặt tên em Giữa mùa xanh em là ngọn lửa Em nung nắng mùa hạ bỏng rực Không gian lấp lánh nắng cháy còn vương chi chút mơ mang Trong đượm buồn xa xăm tít tắp Trong màu đỏ tự đốt lên mong ước Cũng dịu dàng ngọt lắm yêu như em đang ủ ấp điều chi Trong khao khát của màu lửa đỏ Xin em thắp mãi nghe màu yêu đó Cho lứa đôi chẳng thể cách xa. —————– Nỗi lòng thầm kínTa rót vào tim tình yêu mộng tưởng Uống đôi bờ môi xa xăm Ta ước gặp em dẫu chỉ một lần Cho khát khao trào dâng cháy đê mê vạn và ta hai phương trời cách biệt Đắm say chi kiếp thơ thẫn đọa đày Ta nhớ em, em nhớ về người ấy Hai tâm hồn đồng cảm đớn đau. Chưa một lần mình lạc mất nhau Chưa bao giờ nói câu giã biệt Song hành với tình riêng da diết Ta dành cả cho em – Em dâng hết cho người. ———————– Anh có ước gì đâuAnh có ước gì đâu Một ngôi nhà Bão dừng sau cánh cửa Những ưu tư muộn phiền tạm thời bỏ lại Bên trong, chỉ có ấm áp, và emAnh có ước gì đâu Một tách cà phê Một buổi sáng yên lành Ta tất bật đón chào ngày mới Hôm qua là điều đã lùi xa. Những điều to tát như yêu thương, hờn giận, thứ tha Hãy để dành cho chú chim đang hót bên ngoài cửa sổ Đang chờ em là rau đầy một rổ Bó hoa đang chờ cắm Và một ngày bận rộn Của già rồi Nên sẽ không thích kiêng khem Ăn uống ngon, mặc đẹp, đọc những quyển sách hay Đi lang thang đó đây Vùi đầu vào việc làm Hát khi tắm, xem phim khi đang nằm, cuộn tròn khi ngủ Và yêu em khi anh muốn. Anh có ước gì đâu Em ạ! Cuộc đời này, là phức hợp của những điều giản dị Ta cứ sống, thở, cầu nguyện và yêu thôi! Mọi thứ, hoặc chỉ là bản thân nó Hoặc vốn dĩ đã là một phép màu. ———————– Tình đôi taNếu tình anh là biển Tình em chẳng là thuyền Lênh đênh và nhỏ bé Giông bão cả bình yên. Nếu tình anh là biển Em nguyện hóa đất hiền Ôm một đời, một kiếp Hôn cho bõ chao nghiêng. Nếu tình anh là nhớ Tình em sẽ là thơ Thơ như mắt anh nhỏ Anh có thấy bao giờ? Nếu tình anh là nhớ Đố nhớ nhiều hơn em Mỗi lần chênh nhịp thở Mỗi lần hé môi mềm. Nếu tình anh là anh Thì thôi em đành chịu Vì một điều dễ hiểu Như chiếc lá màu xanh.—————Tôi yêu emTôi yêu em đến nay chừng có thể Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai, Nhưng không để em bận lòng thêm nữa Hay hồn em phải gợn bóng u hoàiTôi yêu em âm thầm, không hy vọng, Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm Cầu em được người tình như tôi đã yêu em ———————- Tình XaEm đang sống hay là đang tồn tại??? Mà mỗi ngày lại cảm thấy chênh chao Nỗi nhớ anh như sóng biển thét gào Cứ trào dâng trong lòng cao chất ngấtEm vẫn biết yêu xa là buồn nhất Là mỏi mòn là thấp thỏm lo âu Là niềm vui là cả những u sầu Là hạnh phúc ngập trong màu hy vọngNhưng lòng em, em luôn mơ luôn mộng Ước một lần thỏa khoảng trống khát khao Được bên anh trong cảm xúc dâng trào Nguyện gom hết cho một lần yêu đắm!!! ————————– SÓNG Xuân QuỳnhDữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bểÔi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻTrước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên?Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhauCon sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thứcDẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phươngỞ ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trởCuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xaLàm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ ——————— Viết Cho Người Tình XaYêu xa xôi nhớ nhung là vậy Chẳng được gần mong hãy hiểu nhau Đừng hờn ghen để nước mắt trào Không bên cạnh thõa bao nhung nhớNgười thương ơi nhiều đêm trăn trở Mơ vòng tay ấm áp vỗ về Nụ hôn nồng khao khát đam mê Đêm cháy bỏng cận kề môi mắtBiết yêu xa nhớ nhung quay quắt Nhưng cũng đành nén chặt nhớ thương Giữ trong lòng hình bóng vấn vương Đêm mộng mị canh trường thao thứcMuốn gần bên trao người hạnh phúc Nhưng địa hình ngăn cách xa xôi Đành nhủ lòng chờ đợi mà thôi Yêu xa cách cả trời mong vọng những bài thơ tình Nguyễn Bính trên đây đã cho bạn những phút giây thư giãn và vui vẻ. Tình yêu trong cuộc sống này muôn màu muôn vẻ. Có những nỗi buồn niềm day dứt nhưng cũng không thể thiếu những niềm vui, niềm hạnh phúc khi yêu mà chỉ những người trong cuộc tình mới cảm nhận được hết. Thật may mắn khi nhận được tình yêu trong cuộc đời này. Hạnh phúc thật khó kiếm tìm nên hãy biết giữ gìn và trân trọng tình yêu bé nhỏ của mình nhé. Cùng chia sẻ những dòng thơ tình Nguyễn Bính đến với người ấy cùng đọc và cảm nhận nhé! Chúc các bạn vui vẻ! Thơ Hay - Tags Thơ tình Nguyễn BínhNhững bài thơ ngắn nhớ người yêu khiến trái tim bạn thổn thứcTuyển tập thơ chế tình yêu hài hước cười vỡ bụngNhững bài thơ tỏ tình siêu lãng mạn khiến nàng đổ gụcNhững bài thơ tình chia tay 4 câu hay khiến bạn rơi nước mắtNhững bài thơ tặng người yêu ngọt ngào nhất khiến nửa kia rung độngNhững bài thơ vui về tình yêu hay, hài hước và lãng mạn nhấtNhững bài thơ tình Xuân Diệu hay nhất mọi thời đại lượt xem 375 download Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật.... Chủ đề giáo trìnhgiáo ángiáo án đại họcgiáo án cao đẳnggiáo trình đại họcgiáo trình cao đẳng Nội dung Text NGÔN NGỮ THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH LÊ THỊ HIỀN N GÔN NG Ữ T H Ơ T ÌNH N GUY Ễ N BÍNH CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mà SỐ TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN VINH - 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cho đến nay phương diện ngôn ngữ trong thơ tình của ông vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Ngôn ngữ có vai trò “là phương tiện thứ nhất của văn học”, nên chắc chắn việc khảo sát kỹ lưỡng hệ thống ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác định những điểm độc đáo, đặc sắc về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi đi theo hướng tiếp cận thơ Nguyễn Bính dựa trên quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức cũng như quan hệ giữa cá tính của nhà thơ và thi phẩm của ông. Mặt khác, kết quả khảo sát “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” có thể góp phần lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn hút nhiều thế hệ người Việt đến vậy. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945 nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bính được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Trong chương trình đào tạo cử nhân Ngữ văn ở các trường đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một tác giả lớn. Tuy vậy, phương diện ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ trong những bài thơ của Nguyễn Bính được giảng dạy ở nhà trường nói riêng chưa được đề cập, phân tích. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi lựa chọn và thực hiện với mong muốn tiếp cận mảng thơ tình của Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, qua đó góp phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và tác phẩm Nguyễn Bính trong nhà trường hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm, nhưng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những mâu thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về 2 Nguyễn Bính khá thống nhất. Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn được xem là nhà thơ của “Chân quê”, “Hồn quê”, “Tình quê”. Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã được nghiên cứu xem xét ở nhiều góc độ từ nội dung đến nghệ thuật, từ tư tưởng đến phong cách, từ giọng điệu đến kết cấu. Chưa có một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính một cách tập trung có hệ thống. * Lịch sử nghiên cứu thơ tình Nguyễn Bính Có thể thấy các nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính đều gặp nhau ở điểm ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính vừa truyền thống vừa hiện đại nhưng nghiêng về truyền thống, gần gũi với ca dao hơn là sự cách tân, đây cũng là chỗ đặc sắc hơn người của Nguyễn Bính 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của đề tài Qua khảo sát bộ phận thơ tình Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, đề tài có mục đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong cách thơ có sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt Nam giữa thế kỉ XX. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu a. Nhiệm vụ Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau - Khảo sát và miêu tả về cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính. - Khảo sát và miêu tả các lớp từ và các biện pháp tu từ nổi bật trong thơ tình Nguyễn Bính. b. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát 106 bài thơ tình được sáng tác trước cách mạng tháng tám năm 1945 có trong tập thơ Thơ tình Nguyễn Bính Nxb Đồng Nai, 1996 và Tuyển tập Nguyễn Bính Nxb văn học, Hà Nội 1986. 4. Phương pháp nghiên cứu 3 Trong khi thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây - Phương pháp thống kê - phân loại Được dùng khi khảo sát nguồn tư liệu theo từng vấn đề cụ thể. - Phương pháp phân tích - tổng hợp Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm, từ đó khái quát thành các luận điểm cơ bản. - Phương pháp so sánh - đối chiếu Được dùng khi so sánh đối chiếu với nhà thơ cùng thời về sử dụng ngôn ngữ để làm rõ những đặc điểm riêng về phong cách ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính. 5. Cái mới của đề tài Chúng tôi hy vọng đây là một trong những luận văn đầu tiên cố gắng đi vào tìm hiểu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách toàn diện về phương tiện nội dung và hình thức góp phần vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính trong nhà trường một cách tốt hơn. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm ba chương Chương 1 Một số giới thuyết liên quan đến đề tài. Chương 2 Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính. Chương 3 Ngữ nghĩa ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính. 4 Chương 1 MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Thơ và ngôn ngữ thơ Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi Thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự khác nhau thuần tuý bề ngoài trước hết là ở cơ cấu nhịp điệu. Trong khi văn xuôi thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện một cách khách quan các hiện tượng đời sống thì thơ lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩa cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh. Tác phẩm văn xuôi thường có cốt truyện và hành động. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ. Thơ thường không có cốt truyện, mỗi bài thơ thể hiện một tâm trạng nên dung lượng của nó thường ngắn vì một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài. Trong thơ, cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình. Còn ở văn xuôi thì nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí là nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm, nó đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người trần thuật. Thơ là tiếng nói bộc bạch làm việc trên trục dọc trục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ còn văn xuôi là tiếng nói đối thoại làm việc trên trục ngang trục kết hợp, trục tuyến tính. Không gian trên trang giấy in thơ có nhiều khoảng trắng hơn trang in văn xuôi. Trong văn xuôi, ngôn từ mang tính miêu tả tạo hình, nó ít tập trung vào chính nó, trong khi đó thơ thì không thể tách rời ngôn từ. Có những hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi thơ văn xuôi, văn xuôi nhịp điệu. Đôi khi thơ và văn xuôi xuyên thấm lẫn nhau ví dụ văn xuôi trữ tình hoặc chứa đựng trong nhau những mảng văn bản “dị loại” tác phẩm thơ có những mảng văn xuôi hoặc tác phẩm văn xuôi có những đoạn thơ xen kẽ của các nhân vật hoặc của tác giả. Các đặc trưng của ngôn ngữ thơ 5 Để thấy rõ đặc trưng của ngôn ngữ thơ, chúng tôi phân biệt thơ với văn xuôi trên ba cấp độ ngữ âm, từ vững, ngữ pháp. a. Về ngữ âm Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trưng tính nhạc. b. Về ngữ nghĩa Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa biểu vật mà từ nghĩa ban đầu đó còn có những ý nghĩa mới tinh tế hơn, đa dạng hơn, mới lạ hơn. Đó là nghĩa bóng hay ý nghĩa biểu trưng của ngôn ngữ thơ ca. c. Về ngữ pháp Cấu trúc câu trong ngôn ngữ thơ thường không tuân theo quy tắc bắt buộc và chặt chẽ như câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp thông dụng. Nhà thơ có thể sử dụng các kiểu câu khác nhau như câu đảo ngữ, câu vắt dòng, câu trùng điệp mà không làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận văn bản của người đọc. Ngược lại những kết hợp tổ chức ngôn ngữ “bất quy tắc” lại mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca. Các lớp từ giàu mầu sắc biểu cảm trong thơ ca Việt Nam Lớp từ láy Từ láy là “những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho giá trị giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài hoà với nhau về âm và về nghĩa có giá trị tương đương hoá”. Lớp từ tình thái Tình thái là “những từ biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc của người nói”. Các biện pháp tu từ thường dùng trong thơ ca Ẩn dụ Ẩn dụ là “phương thức tu từ trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo”. So sánh tỉ dụ So sánh là “phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tượng kia”. 6 Đối đối ngẫu Đối là “một phương thức tổ chức lời văn bằng cách điệp ngữ pháp nhằm tạo ra hai vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh được viết thành hai dòng cân xứng, sóng đôi với nhau”. Điệp ngữ Điệp ngữ là “một hình thức tu từ có đặc điểm một từ, cụm từ, câu hoặc đoạn thơ văn được lặp lại với dụng ý nhấn mạnh hoặc gây ấn tượng cho người đọc, người nghe”. Nguyễn Bính - cuộc đời và thơ Cuộc đời và tác phẩm Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân đầu hạ năm Mậu Ngọ 1918 trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở bé Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà mà chỉ học ở nhà với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình, sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Năm 1932 Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác văn học. Ông được giải khuyến khích của tự lực văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi 1940. Năm 1943 Nguyễn Bính được giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà. Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà thơ hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng yếu. Thời gian này Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều đặn, cổ động tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng giết giặc lập công. Tháng 11-1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông làm chủ bút tuần báo “Trăm hoa” Năm 1958 Nguyễn Bính về cư trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá thông tin Nam Định. Mùa thu năm 1965, ông theo cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý Nhân. 7 Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 30 tết năm Ất Tỵ 20-1-1966 lúc đến thăm một người bạn ỏ xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông chưa kịp sang tuổi 49. Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thế loại khác nhau Thơ, truyện thơ, kịch thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác. Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng song thành tựu xuất sắc nhất được độc giả ưa chuộng là thơ bởi thơ là mảng sáng tác kết tụ tài năng và tâm huyết của cuộc đời ông. Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây bút sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong một thời gian ngắn 1940-1945 Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có giá trị Tâm hồn tôi 1940; Lỡ bước sang ngang 1940; Hương cố nhân 1941; Một nghìn cửa sổ 1941; người con gái ở lầu hoa 1942; Mười hai bến nước 1942; Mây tần 1942; Bóng giai nhân Kịch thơ - 1942; Truyện tỳ bà truyện thơ - 1944. Sau cách mạng Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ Ông lão mài gươm 1947; Đồng tháp mười 1955; Trả ta về 1955; Gửi người vợ miền Nam 1955; Trông bóng cờ bay 1957; Tiếng trống đêm xuân 1958; Tình nghĩa đôi ta 1960; Đêm sao sáng 1962. Với lối viết giầu chất trữ tình dân gian Nguyễn Bính đã tạo được một gương mặt riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 2000 Nguyễn Bính đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Thơ tình trong thơ Nguyễn Bính Trong phong trào Thơ Mới 1932 - 1945, Nguyễn Bính là nhà thơ tình có phong cách riêng. Ông tự xem mình là “Thi sĩ của thương yêu”. Đương thời, dư luận báo chí nhận xét đọc “Hương cố nhân ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là người đa cảm, mảnh hồn trong trẻo của tuổi thanh niên đã sớm theo luồng gió ái ân mà nên câu tuyệt diệu”. Con tằm đã luỵ ba sinh Mà em đã luỵ của anh muôn đời. Chức nữ Ngưu lang Trong thơ tình Nguyễn Bính có một tâm hồn luôn khao khát yêu đương, nhớ nhung, chia sẻ. 8 Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính không bình yên ổn định mà luôn ở trạng thái bất an. Và chính cái bất an ấy làm cho câu thơ sao xuyến không ngừng rất thích hợp với tâm trạng người đang yêu. Lạ quá ! làm sao tôi cứ buồn? Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn? Làm sao tôi cứ tương tư mãi Người đã cùng tôi phụ rất tròn? Vâng Thơ tình Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của một trái tim đang thổn thức yêu đương và đến với người đọc như một cô gái quê duyên dáng kín đáo. Thơ tình Nguyễn Bính không đắm đuối ca ngợi tình yêu hưởng lạc như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Nguyễn Bính có ý thức không để cho tình yêu làm tha hoá biến chất, không để những ham muốn trong tình yêu lứa đôi cuốn con người vào vòng truỵ lạc. Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày Thơ tình Nguyễn Bính luôn khao khát một mái ấm gia đình đơn sơ giản dị. Nhà gianh thì sẵn đấy Vợ xấu có làm sao Quốc kêu ngoài bãi sậy Hoa súng nở đầy ao Thanh đạm Nguyễn Bính luôn nghĩ tới mối tình thuỷ chung, đến những người con gái biết chung tình với mối tình không dứt, với cuộc sống đoàn viên. Như truyện Tương Như và Trác Thị Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng Tôi với em Nhi kết vợ chồng Hoa với rượu 9 Thơ tình Nguyễn Bính toát lên tình yêu thương mãnh liệt “Nguyễn Bính đã đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái, dở dang, phân cách, bẽ bàng. Với ngòi bút của thi nhân, Nguyễn Bính tả chân thực được nỗi u buồn, trầm lặng, giải toả được những tiếng kêu bi thương của những tâm hồn mộc mạc”. Chính điều đó đã làm cho hồn thơ Nguyễn Bính đi vào tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng. 10 Chương 2 CẤU TRÚC VÀ ÂM ĐIỆU THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học bao gồm các phương tiện biểu hiện nghệ thuật kết hợp hài hoà với hình tượng nghệ thuật nhằm hướng đến phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn. Là một nhà Thơ Mới, Nguyễn Bính vừa kế thừa nhiều hình thức của thơ ca dân tộc nhưng lại là một nhà cách tân, sáng tạo trên cấu trúc và mô hình truyền thống có sẵn. Đi vào tìm hiểu cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính cũng chính là tìm hiểu những cách tân về hình thức nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính. Các thể thơ tiêu biểu trong thơ tình Nguyễn Bính Kết quả thống kê phân loại về thể thơ Bảng 1 Phân loại các thể thơ trong thơ tình Nguyễn Bính THỂ THƠ SỐ LƯỢNG BÀI TỈ LỆ % Thơ lục bát 50 47,16 Thơ bảy chữ 48 45,28 Thơ năm chữ 5 4,71 Thơ đường luật 3 2,83 Tổng 106/106 Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính trước cách mạng, một điều chúng tôi dễ nhận thấy là thơ ông không có sự xuất hiện thơ tự do, thơ văn xuôi như các nhà Thơ Mới khác. Nhà thơ sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất vẫn là thể thơ lục bát với số lượng nhiều nhất 50 bài 47,16%, tiếp đến là thể thơ 7 chữ 48 bài 45,28%. Ngoài ra để góp phần làm tăng sự phong phú cho thể loại thơ tình, Nguyễn Bính còn sáng tác một số bài thơ 5 chữ và thơ Đường luật trong đó thơ Đường luật chiếm số lượng ít nhất 3 bài 2,83% trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính Thể thơ lục bát Thơ tình lục bát của Nguyễn Bính là những bài thơ tình hoàn chỉnh, mỗi bài là một câu chuyện về một cuộc đời, một thân phận, có cảnh ngộ và tâm trạng riêng như 11 trong các bài Lỡ bước sang ngang, Lòng mẹ, Người hàng xóm...Bởi vậy mà dung lượng bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính phần lớn là những bài thơ dài. Qua khảo sát 50 bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính chúng tôi thấy có 22 bài thơ lục bát dưới 10 dòng trong số đó có một bài ngắn nhất là 2 dòng Hoa cỏ may và 28 bài thơ lục bát dài trên 10 dòng trở lên. Trong thơ Nguyễn Bính, âm hưởng của thơ ca dân gian còn vang vọng ở thể thơ lục bát thể loại điển hình nhất của ca dao dân ca. Nguyễn Bính đã biết cách làm giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hoá dân gian, từ đó khai thác và khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới Nguyễn Bính hay vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp 2/2/2;3/3 câu lục và 2/2/2/2; 4/4 câu bát thường thấy của ca dao. Ngôn ngữ thơ lục bát của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn đỗ ván, ao rau cần, dậu mồng tơi, hoa chanh hoa bưởi, gió cả, giời cao Một điều đáng chú ý là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã hoà hợp vào thơ Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những đại từ phiếm chỉ người’’, ai’’, ta’’, mình’’ hoặc những cụm từ phím chỉ người ấy’’, bên ấy’’, bên này’’rất tế nhị, Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả thường dùng hình ảnh hoa -bướm, trầu -cau,bến-đò, nói về thân phận người con gái đi lấy chồng mà không có hạnh phúc, tác giả gọi là lỡ bước sang ngang, mười hai bến nước, nói tới thân phận tha hương nhà thơ viết thân nhạn, số long đong. Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian kiểu chín nhớ mười mong, bảy nổi ba chìm, .... Về mặt cấu tứ bài thơ, khảo sát thơ tình Nguyễn Bính nói chung và thơ tình lục bát Nguyễn Bính nói riêng trước cách mạng, ta có thể nhận thấy trong thơ ông cũng 12 có các cách cấu tứ bài thơ theo thể phú, thể tỷ và thể hứng. Đây là ba thể chính trong kết cấu bài ca dao. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa có những đặc điểm gần gũi về nghệ thuật thể hiện như trong thơ ca dân gian mà chúng tôi đã trình bày ở trên nhưng lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính có những sáng tạo mới mẻ về hình ảnh, nhịp điệu trong cách thức và ý nghĩa sử dụng so với ca dao. Thơ lục bát của Nguyễn Bính là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trog ca dao, với những bờ tre, gốc lúa, mảnh vườn, con đò, bến nước, nương dâu. Nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới. Hình ảnh dòng sông, con thuyền đi vào thơ Nguyễn Bính cũng có sự khác biệt so với ca dao. Cánh buồm hư ảo xuất hiện trong thơ ông như một sự mở rộng đến cao độ. Một cánh buồm mở rộng cả không gian, thời gian và chất chứa tâm trạng của sự chia xa. Anh đi đấy, anh về đâu ? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm.. Cánh buồm nâu Cũng là hình ảnh ngọn mồng tơi quen thuộc nhưng nếu trong ca dao, ngọn mồng tơi cũng như giải yếm, cành hồng là những nhịp cầu thể hiện khát vọng gắn kết đôi lứa lại với nhau. Ở gần sao chẳng sang chơi Để anh cắt ngọn mùng tơi bắc cầu Cô kia cắt cỏ bên sông Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang Ca dao Trong thơ Nguyễn Bính những hình ảnh trên lại trở thành biểu tượng cho sự ngăn cách về tâm hồn, là khoảng cách tâm lí mà con người không dễ gì vượt qua được. Chàng trai và cô gái trong thơ lục bát Nguyễn Bính chỉ cách nhau bởi giậu mồng tơi mà đành thu hẹp mình trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ngập tràn. Giá đừng có giậu mồng tơi 13 Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng Người hàng xóm Cuối cùng chàng trai chỉ còn biết gửi hồn vào con bướm trắng, con bướm của mộng tưởng vẫn đi về giữa đôi bên để làm vơi bớt nỗi cô đơn của chàng trai. Tìm hiểu thơ tình Nguyễn Bính trước năm 1945, ta thấy thơ lục bát của ông có những dấu ấn riêng. Lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh hoạt diễn tả tình cảm tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Lục bát của Nguyễn Bính mang bản sắc,diện mạo trong thơ tình Nguyễn Bính nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung trong phong trào thơ mới 1932- 1945.Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính thể hiên tâm trạng cái tôi Thơ Mới, mang đủ mọi cung bậc, cảm xúc buồn vui, ngậm ngùi, cay đắng vừa như kể chuyện lại vừa như trữ tình. Thể thơ bảy chữ Sau sự thành công của thể lục bát, thể thơ bảy chữ cũng được Nguyễn Bính thể hiện khá thành công trong đề tài viết về mùa xuân. Thơ bảy chữ của Nguyễn Bính có số lượng 48 bài 45% trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính. Cùng với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ đều viết về mùa xuân và đã có nhiều bài thơ hay được khơi nguồn từ cảm hứng xuân. Song trong mạch cảm hứng về thơ xuân ấy, thơ xuân Nguyễn Bính vẫn có một vẻ riêng. Thể thơ 5 chữ Thơ 5 chữ là thể thơ truyền thống xuất hiện trong sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao. Số lượng bài thơ 5 chữ tuy ít hơn rất nhiều so với lục bát và thơ 7 chữ của Nguyễn Bính. Thơ 5 chữ của Nguyễn Bính có 5/106 bài 4,7%. Những bài thơ này tuy câu chữ có vẻ hạn hẹp nhưng không vì thế mà nội dung tình cảm lại khô khan, nghèo nàn. Ngược lại trong khuôn khổ hình thức ấy Nguyễn Bính đã biết lựa chọn và 14 tổ chức ngôn ngữ để tạo nên cho thơ 5 chữ của mình một thế giới cảnh vật đầy ắp màu sắc hình khối đặc biệt là thế giới tình cảm phong phú, tinh tế của lòng người. Thơ tình 5 chữ của Nguyễn Bính là những bài thơ tình tác giả viết về tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, mỗi khổ gồm 4 câu, bài dài nhất là 7 khổ. Cách ngắt nhịp và gieo vần cũng khác với thể hát giặm. Nếu thể hát giặm chỉ ngắt 1 nhịp 3/2 cố định như khổ thơ trên thì thơ 5 chữ của Nguyễn Bính nhịp thơ được ngắt linh hoạt theo dòng tâm trạng và cảm xúc và tâm trạng nhân vật trữ tình, nhịp xen kẽ 2/3 và 3/2 trong một khổ thơ, tác giả gieo vần chân gián cách ở cuối câu thơ. Thể thơ 5 chữ trong thơ tình Nguyễn Bính dù rất ít nhưng đã góp phần làm giàu thêm trong sự đa dạng, đa giọng của thể loại thơ tình Nguyễn Bính. Tổ chức của các bài thơ tình Nguyễn Bính Khái niệm tiêu đề trong văn bản thơ Tiêu đề là tên gọi cuả một văn bản thơ, thường ở đầu văn bản, được trình bày bằng những con chữ riêng cho phép phân biệt nó với toàn bộ phần còn lại của văn bản. Tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính Bảng 2 Độ dài tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính ĐỘ DÀI TIÊU ĐỀ SỐ BÀI TỈ LỆ % VÍ DỤ 1 âm tiết 5 4,7% Nhớ, ghen… 2 âm tiết 43 40,5% Chờ nhau, Chân quê… 3 âm tiết 30 28,3% Người hàng xóm, Mùa xuân xanh… 4 âm tiết 20 18,8% Một trời quan tái… 5 âm tiết 1 0,9% Giấc mơ anh lái đò… 6 âm tiết 4 3,7% Người con gái ở lầu hoa… 7 âm tiết 3 2,8% Hà Nội ba mươi sáu phố phường.. Qua khảo sát độ dài tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng Tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính có độ dài ngắn nhất là 1 âm tiết và dài nhất là 7 âm tiết. Tiêu đề được Nguyễn Bính dùng nhiều nhất là 2 âm tiết và 3 âm tiết 68,8%, tiêu đề dùng ít nhất là 5 âm tiết 0,9%. Điều này chứng tỏ đồ dài tiêu đề 15 Nguyễn Bính rất ngắn gọn nhưng vẫn thể hiện đầy đủ nội dung chủ đề các bài thơ tình Nguyễn Bính. 16 Bảng 3 Cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính CẤU TẠO TIÊU ĐỀ SỐ BÀI TỈ LỆ % VÍ DỤ Từ 12 Nhớ, Ghen… Lỡ bước sang ngang, Hoa với Cụm từ 84 79,24% rượu... Người con gái ở lầu hoa, Nàng đi Câu 10 9,43% lấy chồng... Qua bảng cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính nhiều nhất là cụm từ 79,24% và cấu tạo tiêu đề ít nhất là câu 9,43%. Khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính Khổ thơ xét về hình thức biểu hiện gồm nhiều câu thơ, có một ý tương đối độc lập hoặc có một khoảng cách nhất định khi viết, khi in. Số liệu thống kê - phân loại khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính Khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính, chúng tôi thấy có 82 bài thơ chia khổ, số lượng khổ thơ là 418 khổ. Trong thơ tình Nguyễn Bính bài có số khổ nhiều nhất là 25 khổ Hoa với rượu, bài có số khổ ít nhất là một khổ Hoa cỏ may. Những bài thơ nhiều khổ thường nằm ở thể thơ 7 chữ Hoa với rượu 25 khổ, Mười hai bến nước 24 khổ, Viếng hồn trinh nữ 18 khổ. Phổ biến trong mỗi khổ thơ tình Nguyễn Bính là mỗi khổ 4 câu ở cả thơ lục bát, thơ 7 chữ và thơ 5 chữ. Khổ thơ mở đầu và khổ thơ kết thúc các bài thơ tình của Nguyễn Bính Trong thơ tình Nguyễn Bính có 82 bài thơ chia khổ và 24 bài thơ không chia khổ. Các bài thơ chia khổ đều có khổ mở đầu và khổ kết thúc. Khổ thơ mở đầu và kết thúc đã góp phần làm nổi bật phong cách thơ tình Nguyễn Bính đầy tự do, cảm xúc, không hề có sự lệ thuộc hay gò ép trong việc thể hiện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật thơ. Khổ thơ mở đầu và kết thúc có sự liên hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức tạo nên tính chỉnh thể trong toàn bộ tác phẩm thơ tình Nguyễn Bính. 17 Âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính a/ Vần điệu thơ Vần là một “Phương tiện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hòa và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ”. b/ Nhịp điệu thơ Nhịp điệu là “Một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quảng hoặc luân phiên các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trinh nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mỹ”. c/ Thanh điệu trong thơ Thanh điệu là “hiện tượng nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết. Trong tiếng việt có 6 thanh điệu, có tác dụng khu việt vỏ âm vị và được gọi là âm vị thanh điệu… mỗi thanh điệu được xác định bằng một chùm các tiêu chí khu biệt về âm vực, về âm điệu, về đường nét”. Vần điệu trong thơ tình Nguyễn Bính Bảng 4 Số liệu kết quả thống kê các loại vần trong thơ tình Nguyễn Bính Phân loại vần Số lượng cặp vần Tỷ lệ % Vần chính 416 36,26 Vần thông 139 12,11 Vần ép 112 9,76 Vần chân 259 22,58 Vần lưng 221 19,26 Qua bảng thống kê kết quả các loại vần trong 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy có tỷ lệ số vần như sau Xét theo mức độ hoà âm số cặp gieo vần chính là 416 cặp 36,26%, số cặp gieo vần thông 139 cặp 12,11%. Xét theo vị trí gieo vần thì số cặp gieo vần chân 259 cặp 22,58%, số cặp gieo vần lưng 221 cặp 19,26%. 18 Nhịp điệu trong thơ tình Nguyễn Bính Thơ tình Nguyễn Bính đã xuất hiện những lối ngắt nhịp không còn tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, diễn tả tâm trạng chủ quan của cái tôi cá thể, đào sâu vào thế giới nội tâm của con người. Do vậy nhịp điệu trong thơ ông là nhịp điệu tâm hồn. Lối ngắt nhịp trong thơ tình Nguyễn Bính rất tự do, mới mẻ, xôn xao hơi thở thời đại. Thanh điệu trong thơ tình Nguyễn Bính Góp phần làm nên tính nhạc tiềm ẩn trong thơ Nguyễn Bính không thể không nói đến thanh điệu. Trong thơ Nguyễn Bính giữa các câu thơ nói riêng và giữa toàn bài thơ nhà thơ đã khéo léo phối hợp các yếu tố ngữ âm đặc biệt là thanh điệu làm cho câu thơ, bài thơ mang âm hưởng và tính nhạc độc đáo. Tiểu kết chương 2 Nguyễn Bính Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, cùng với Xuân Diệu, ông cũng được gọi với cái tên Vua thơ tình. Trong khi các thi sĩ cùng thời thường đi theo lối viết tự do, phá cách và ảnh hưởng nhiều của văn học phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm cho mình một lối đi riêng, với những vần thơ dung dị, mộc mạc. Qua bao nhiêu thử thách khắc nghiệt của thời gian, thơ Nguyễn Bính vẫn tồn tại và giữ cho mình một chỗ đứng vững trãi trong lòng người yêu văn chương bao thế hệ nhờ những giá trị vô giá về mặt nội dung cũng như nghệ thuật. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bính Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại tỉnh Nam Định, những sinh hoạt văn hóa tại quê hương như hát dao duyên hay hát chèo đã có ảnh hưởng rất lớn đến sáng tác của ông sau này. Khi còn nhỏ, Nguyễn Bính không được đi học mà chỉ có cha, là một ông đồ, dạy dỗ tại nhà. Năm nhà văn tròn mười tám tuổi, ông rời quê hương để ra Hà Nội học tập, từ đây sự nghiệp văn chương của tác giả có nhiều khởi sắc và dần tạo được vị thế trong lòng độc giả. Những ngày đầu tiên trong chặng đường làm thơ của Nguyễn Bính, họa sĩ Nguyệt Hồ đã có công rất lớn trong việc giúp ông tiếp cận gần hơn với công chúng, nhờ bà giới thiệu nhà văn cho chủ tòa soạn Tiểu thuyết thứ Năm nên ông đã có bài thơ đầu tiên được đăng lên báo, mang tên Cô gái hái mơ. Hình ảnh nhà thơ Nguyễn Bính Năm 1937, Nguyễn Bính nhận được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn qua tập thơ Tâm hồn tôi và vài năm sau đó ông đoạt giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn nhờ tác phẩm Cây đàn tỳ bà. Sau năm 1940, tác giả viết đều tay hơn và cho ra đời rất nhiều bài thơ có giá trị như Chân quê, Lỡ bước sang ngang hay Sao chẳng về đây. Nguyễn Du là nghệ sĩ mà Nguyễn Bính yêu thích và cũng là người ảnh hưởng rất nhiều đến phong cách văn chương của ông, điều đó thể hiện rất rõ ở cách ông sử dụng ngôn ngữ cũng như chất liệu văn hóa dân tộc vào trong thơ ca. “- Em ơi! Em ở lại nhà Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em, em ở lại nhà Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.” – Lỡ bước sang ngang Năm 1947, Nguyễn Bính đi theo Việt Minh, hoạt động cách mạng, ông tham gia nhiệt tình những công việc được giao và nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng. Bên cạnh đó, nhà văn còn dùng chính ngòi bút của mình để làm vũ khí, cổ động tinh thần yêu nước cũng như kêu gọi tham gia chiến đấu, chống giặc ngoại xâm cứu nước. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, công tác tại Hội nhà văn Việt Nam và vào năm 1956, ông làm việc cho tờ báo Trăm hoa. Tập thơ đã được xuất bản của Nguyễn Bính Trong hơn ba mươi năm sự nghiệp, Nguyễn Bính thử sức ở rất nhiều thể loại như thơ, truyện, kịch, tuy nhiên thành công nhất vẫn là ở mảng thơ ca và ông cũng rất vinh dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh cho những cống hiến to lớn của mình đối với nền văn học. Trong vô vàn những tên tuổi lớn của thời kỳ thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận hay Hàn Mặc Tử thì cái tên Nguyễn Bính vẫn có một vị thế vững trãi trong suốt dòng chảy văn học Việt Nam, nhờ vào phong cách viết tuy dung dị nhưng vô cùng độc đáo. Nhà văn với lối viết đậm nét chân quê Thơ mới ra đời trong khoảng thời gian nước ta đón nhận sự du nhập mạnh mẽ của nền văn hóa phương Tây, điều này có ảnh hưởng lớn đến văn chương của thi sĩ lúc bấy giờ nhưng giữa những biến động ấy, Nguyễn Bính vẫn kiên định với lối thơ mộc mạc và đậm chất chân quê. Nhận xét về ông, Lê Đình Kỵ từng cho rằng “So với các nhà thơ lãng mạn trước đây, Nguyễn Bính đứng riêng một cõi.” Nguyễn Bính sinh ra ở Nam Định, vì vậy khung cảnh và con người quen thuộc của một vùng quê Bắc Bộ xuất hiện chân thật và bình dị trong thơ ông như cây đa, bến nước, sân đình cùng cô thôn nữ và anh nông dân. Nhà văn thường xuyên sử dụng các thể thơ truyền thống như lục bát và thất ngôn, kết hợp với ngôn từ mượt mà, giản dị tạo nên những câu thơ ngọt ngào như những câu ca dao dao duyên. Nhắc về Nguyễn Bính, Hoài Thanh nói rằng thơ của ông có tính cách Việt Nam, mộc mạc như câu hát đồng quê. “Van em em hãy giữ nguyên quê mùa Như hôm em đi lễ chùa. Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh. Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Thầy u mình với chúng mình chân quê Hôm qua em đi tỉnh về Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.” – Chân quê Chân quê như một lời tuyên ngôn của Nguyễn Bính với tình yêu phong tục tập quán cũng như nét đẹp truyền thống của dân tộc. Bài thơ là sự phiền lòng của chàng trai trước những thay đổi của người con gái khi đi tỉnh về, trang phục quen thuộc như chiếc áo yếm, khăn mỏ quạ đã được thay bằng những thứ đồ đắt đỏ hơn. Người con trai tiếc nuối vẻ đẹp chân quê ngày trước, tha thiết cầu mong cô gái giữ nét đẹp truyền thống với những đức tính chất phác, đôn hậu ngàn đợi của những người dân quê. Chân dung nhà thơ Nguyễn Bính Đọc thơ của Nguyễn Bính, ta như được trở về một vùng quê sau những lũy tre làng, ông đưa vào thơ của mình không chỉ khung cảnh mà cả lời ăn tiếng nói của con người nơi đây. Nhà thơ với nhân dân như hòa vào làm một, giúp ông thấu hiểu thói quen cũng như tâm tư, suy nghĩ của họ và đưa chúng vào thơ ca thật đẹp và chân thành. “Một năm đến lắm là ngày Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng Từ ngày cô đi lấy chồng Gớm sao có một quãng đồng mà xa.” – Qua nhà Nguyễn Bính viết về những người phụ nữ nông thôn trước cách mạng với nỗi đau khổ, tủi hờn, vất vả rất chân thật và xót xa, nếu không có một tình yêu cũng như sự gắn bó với quê hương thì có lẽ ông không thể chắp bút nên những vần thơ hay và day dứt đến thế. Lỡ bước sang ngang được tác giả sáng tác năm 1939, bài thơ là lời xót xa của người chị khi đi lấy chồng nhưng chẳng thể dứt bỏ những lo toan về người mẹ già và đứa em nhỏ nheo nhóc. “Em ơi em ở lại nhà Vườn dâu em đốn mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa.” – Lỡ bước sang ngang Hoài Thanh khẳng định khó tìm đâu ra một hồn thơ quê mùa như Nguyễn Bính và quả thật chính điều đó đã trở thành chất riêng trong thơ ca của tác giả, cứ như thế những tác phẩm của ông đi vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Nguyễn Bính là ông vua của những bài thơ tình Nhắc đến thơ tình, bên cạnh Xuân Diệu người ta còn nói đến Nguyễn Bính với những trang thơ rất tình và da diết. Tình yêu luôn là đề tài muôn thuở cho người thi sĩ, thế nhưng thứ cảm xúc đặc biệt ấy lại được những trái tim cảm nhận khác nhau, vì vậy cách họ đưa chúng vào trong thơ cũng thật riêng biệt. Tình yêu xuất hiện trong thơ ca muôn hình vạn trạng, nó da diết nhưng mong manh trong thơ Hàn Mặc Tử hay nồng nàn, mãnh liệt qua ngòi bút của Xuân Diệu, còn đối với Nguyễn Bính tình yêu đa phần là chờ đợi và biệt ly. Nguyễn Bính từng mượn hình ảnh cánh buồm để diễn tả sự chia xa, một cánh buồm bao chùm cả không gian và thời gian, chứa đựng nỗi buồn cũng như những lưu luyến khi phải nói lời từ biệt. “Anh đi đấy, anh về đâu? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm nâu…” – Cánh buồm nâu Nguyễn Bính có nhiều mối tình không hạnh phúc, vì thế sự tan vỡ hay lìa xa thường trở thành cảm hứng chủ đạo trong những áng thơ tình của ông, qua những trang thơ, tất cả xúc cảm được bộc lộ thật chua xót đan xen với vô vàn tiếc nuối. Tình yêu luôn có nhiều sắc thái và trong số đó có một kiểu gọi là tình đơn phương, thứ mà cũng thường xuyên đi vào thơ của tác giả với những nỗi nhớ nhung da diết. “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười thương một người” – Tương Tư Thơ tình Nguyễn Bính còn bộc lộ niềm khao khát mãnh liệt có được một gia đình nhỏ hạnh phúc, đồng thời ngòi bút của nhà văn cũng thường hướng đến sự chung thủy, không thay lòng trong tình yêu. Nhà thơ đã đi sâu vào từng ngóc ngách trái tim của những kẻ đang yêu, thấu hiểu tất cả những nồng nàn, tha thiết cũng như đau khổ, bi thương trong họ để từ đó ông họa nỗi niềm ấy vào từng trang văn ngọt ngào và sâu sắc. Trích đoạn hay trong bài thơ Những bóng người trên sân ga của Nguyễn Bính Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ của nhiều thời đại, bởi thơ ông không phải tiếng nói cá nhân mà đó là tiếng lòng xót xa của vô vàn mảnh đời, với những số phận khác nhau nhưng cùng mang một nỗi niềm. Một nhà thơ chân quê, luôn say mê với nét đẹp truyền thống dân tộc, sáng tác của ông không mang ngôn từ cầu kỳ, hoa mỹ nhưng lại luôn có cách riêng để sống mãi trong lòng bạn đọc. “Người Việt Nam còn yêu thơ Nguyễn Bính mãi, càng văn minh hiện đại lại càng trân trọng.” – Vũ Quần Phương Qua bao nhiêu lớp bụi phủ của thời gian, thơ ca Nguyễn Bính vẫn sống hiên ngang trong dòng chảy văn học Việt Nam nhờ vào những giá trị về cả nội dung và nghệ thuật nó đem lại. Ngọc Linh

thơ tình của nguyễn bính